vietsoul21

Search for “Siemon-Netto”

Thư gởi RFA về Cuộc phỏng vấn của Việt Hà và vấn đề chuyển ngữ của Vũ Hoàng với tác giả cựu phóng viên chiến trường Uwe Siemon-Netto qua bài “Ký ức về cuộc chiến Việt Nam của một phóng viên Đức”

In Cộng Đồng on 2015/02/15 at 18:11

BBT (3/5/2015): Ban điều hành đài Á Châu Tự Do (RFA) đã sửa chữa các vấn đề, nhất là tựa đề sách và cho đăng tải phần hai của cuộc phỏng vấn, mặc dù không trả lời chúng tôi. Đây là các vấn đề mà chúng tôi nêu ra trong lá thư dưới đây.

BBT (2/16/2015): Hôm qua, sau khi chúng tôi cho đăng lá thư viết cho ban điều hành của đài RFA than phiền về việc phiên dịch sai sót (mang tầm ảnh hưởng nghiêm trọng trong việc định hướng dư luận tiêu cực) qua cuộc phỏng vấn của Việt Hà với một cựu phóng viên chiến trường người Đức từng có mặt tại Việt Nam trong thập niên 1960 và 1970 trước biến cố tháng 4 1975, có thể sẽ có người sau khi đọc lá thư này sẽ nghĩ là chúng tôi quá cẩn thận.

Chúng tôi thiển nghĩ lá thư này không phải là chuyện phản ứng một cách “cực đoan”, chi li hay “vạch lá tìm sâu”.

Lý do? Chúng tôi đã viết như sau trong đoạn kết của lá thư:

“… dù vô tình hay cố ý, việc chuyển ngữ mang tính chủ đích này đã làm lợi cho nghị quyết 36 của ĐCSVN.

Nói một cách khác, ngôn ngữ thì không tránh khỏi tính chính trị dù ta cố tìm cách bào chữa và cho nó chỉ là “từ vựng” mang tính trung lập. Dịch thuật, do đó, bị giới hạn vì bản sắc và phẩm chất của bản dịch cuối cùng chịu ảnh hưởng của người mang trách nhiệm chuyển dịch–không những chỉ ở mức độ khả năng và trình độ mà còn do thành kiến định chế từ kinh nghiệm sống và bối cảnh văn hóa và không gian chính trị–nơi mà từ đó họ đã sinh trưởng.”

Điều độc hiểm xảo quyệt trong chủ đích lựa chọn hay cắt xén ngôn từ này đã từng được chứng minh.

Ví dụ, mới đây ông Thomas Bass, một phóng viên nghiên cứu đang giảng dạy tiếng Anh và báo chí tại Đại học tiểu bang New York ở Albany và người đã làm một cuộc thí nghiệm để nghiên cứu kiểm duyệt ở Việt Nam, đã từng nhận định như sau trong bài viết mang tựa đề, “Vietnam’s concerted effort to keep control of its past” (Nỗ lực của Việt Nam để giữ quyền kiểm soát về lịch sử quá khứ)

“In fact, the most insidious changes occur at the level of language.” (Trong thực tế, những thay đổi độc hiểm nhất xảy ra ở cấp độ ngôn ngữ.)

(Xin xem toàn bộ bài viết của ông đã được chúng tôi phiên dịch tại https://vietsoul21.net/2015/02/02/no-luc-cua-viet-nam-de-giu-quyen-kiem-soat-ve-lich-su-qua-khu/)

Chuyện nhỏ nhưng không phải nhỏ là vậy.

Nếu chúng ta coi thường tầm ảnh hưởng mang tính chính trị của ngôn ngữ qua hành động các con chữ được gạn lọc và bị cắt xén theo một chủ thuyết mục đích tuyên truyền nào đó, chúng ta vô hình chung đã rơi vào bẫy độc hiểm xảo quyệt nhất trong tiến trình tạo ra và củng cố diễn luận (discourse) của kẻ nhóm/tập đoàn thống trị.

Diễn luận thì đã xảy ra rất nhiều và cả người làm báo/truyền thông cũng không miễn nhiễm. Chúng tôi do đó cũng đã phân tích tầm ảnh hưởng của diễn luận ví dụ như qua loạt bài về “bất bạo động” trên blog của mình, https://vietsoul21.net/2014/06/07/bat-bao-dong-trong-dien-luan-phan-i/

Chuyện gì xảy ra khi đã rơi vào bẫy tròng diễn luận này? Lú lẫn lãng quên!!!

Chuyện gì xảy ra khi trò chơi qua ngón đòn “lú lẫn lãng quên” thành công? Quý bạn đã có thể tự trả lời rồi đấy.

**************************************************
Re: Cuộc phỏng vấn của Việt Hà và vấn đề chuyển ngữ của Vũ Hoàng với tác giả cựu phóng viên chiến trường Uwe Siemon-Netto qua bài “Ký ức về cuộc chiến Việt Nam của một phóng viên Đức
Kính gởi ban điều hành Đài Á Châu Tự Do/chương trình Việt Ngữ [Radio Free Asia(RFA)/Vietnamese program]:

cc: vietweb@rfa.org; siemon-netto@siemon-netto.org; uwesiemon@mac.com; uwesiemon@me.com; quyvanly@aol.com

Chúng tôi rất thất vọng về việc dịch thuật của nhân viên đài phát thanh RFA cho tựa sách xuất bản lần thứ ba của tác giả/cựu phóng viên chiến trường người Đức, ông Uwe Siemon-Netto. Nguyên tựa đề của quyển hồi ký tái xuất bản lần thứ hai và thứ ba này là, “Triumph of the Absurd: A reporter’s love for the abandoned people of Vietnam”.

Cuộc phỏng vấn của Việt Hà/RFA này đã được chia ra thành hai kỳ và cho phát thanh phần một trong Chương trình 9:00 tối 12-02-2015 ở phút thứ 30′:13“, và phần hai trong Chương trình 6:30 sáng 13-02-2015 ở phút 11′:22″.

Chúng tôi nhận định việc sai sót này không thật sự liên quan đến trình độ phiên dịch của Vũ Hoàng và Việt Hà—hai nhân viên gốc gác sinh trưởng và lớn lên tại miền Bắc Việt Nam và đã được quý đài tuyển mộ trong một thời gian tương đối khá dài.

Quyết định cố ý dịch tựa sách thành “Đức: Thâm tình của một phóng viên với thương binh Việt Nam” tuy nhìn trên bề mặt chỉ như một sai sót thật ra là nghiêm trọng và có liên quan đến các vấn đề sau đây:

(1)          Sai sót lớn trong chuyển ngữ:

(1a).       Chúng tôi muốn biết vì lý do gì tựa đề của quyển hồi ký xuất bản lần thứ ba là “Triumph of the Absurd: A reporter’s love for the abandoned people of Vietnam” đã bị chuyển dịch thành “Đức: Thâm tình của một phóng viên với thương binh Việt Nam”?

Nếu dựa vào tựa sách lần xuất bản đầu tiên, “Đức: A Reporter’s Love For a Wounded People” thì ít ra cũng phải được tạm dịch là “Đức: Thâm tình của một phóng viên dành cho một dân tộc nhiều đau thương”. Nếu dựa vào tựa sách lần hai và ba thì phải dịch là “Sự Vinh Quang Phi Lý: Thâm tình của một phóng viên dành cho một dân tộc bị bỏ rơi”.

Khi cố ý dịch từ “dân tộc” thành “thương binh Việt Nam” và xóa từ “đau thương” hay “bỏ rơi” cho tựa đề của hồi ký thì việc chuyển ngữ này mà Vũ Hoàng và Việt Hà đã làm với chủ đích gì? Đây không phải là việc sai sót nhỏ. Tại sao giảm thiểu tựa đề của quyển hồi ký xuống chỉ còn nhắm đến thành phần “thương binh” thay vì một “dân tộc”? “Thương binh Việt Nam” nào trong bối cảnh nào được đề cập?

Nếu e có sự ngộ nhận trong từ ngữ “dân tộc” trong quyển hồi ký này thì điều cần thiết là phải có chú thích/giải thích về chữ “dân tộc” mà tác giả đề cập đến và nhấn mạnh trong hồi ký này là dân miền Nam Việt Nam trong thời kỳ trước tháng 4 năm 1975. Thật ra, theo thiển nghĩ của chúng tôi, ông Siemon-Netto đã nghĩ rộng hơn nữa, “dân tộc” là cả một dân tộc Việt Nam đã bị bỏ rơi và chịu đau khổ cho đến ngày hôm nay vì một cuộc chiến oái ăm do những kẻ phi lý được Liên Xô và Trung Cộng hỗ trợ cả tiền và vũ khí.

Như đã đề cập ở trên, hồi ký của ông Siemon-Netto đã xuất bản ba lần. Chúng tôi chú ý đến các hoạt động liên quan đến quyển hồi ký này từ khi khởi đầu, và đã có các bài dịch thuật đăng tải liên quan đến quyển hồi ký này trên trang blog của VietSoul:21. Đây là một sản phẩm văn hóa/giáo dục hiếm hoi quan trọng ra đời trong khoảng thời gian gần đây đồng loạt với một vài tác phẩm (ví dụ như Lan Cao với “Hoa Sen và Bão Tố” hay bộ phim của Rory Kennedy “Những Ngày Cuối Cùng tại Việt Nam”) mang tính khôi phục các góc cạnh lịch sử đã bị bóp méo/bôi xóa, cũng như tôn trọng sự thật từ lăng kính và kinh nghiệm sống của kẻ/nhóm không có tiếng nói và đã/đang bị bịt miệng vì nhiều lý do mang tính chính trị. Tại sao hiếm có? Vì đây là một sản phẩm hoàn toàn đưa ra góc nhìn phản kháng khác hẵn 700 sản phẩm văn hóa thiên tả–từ phim ảnh Hollywood đến sách nghiên cứu hàn lâm–khác tại Hoa Kỳ đã ra đời chất chứa nhiều định kiến và sai lệch về cuộc chiến Việt Nam.

Do đó, việc cố tình dịch thuật méo mó tựa sách sẽ ảnh hưởng tầm nhìn của những cá nhân và thành phần nào? Chắc chắn là không phải là những ai theo dõi xuyên sát về các sản phẩm mang giá trị quan trọng về lịch sử và chính trị, chẳng hạn những bloggers như chúng tôi.

(1b) Sau khi có cuộc phỏng vấn của Việt Hà với chính tác giả, phần I của cuộc phỏng vấn này đã được dịch và đăng tại link của RFA sau đây, http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/40years-april30/memory-vn-war-b-german-reporter-02132015130158.html?searchterm:utf8:ustring=Uwe+Siemon-Netto.

Chúng tôi muốn biết tại sao phần hai (từ phút 11’22” đến 17’44”) không được chuyển ngữ và đăng tải trên blog của đài? Đây là đoạn phỏng vấn không kém phần quan trọng khi Việt Hà đặt các câu hỏi thường được đặt để bởi các ký giả/giáo sư/chính trị gia thuộc thành phần thiên tả.

Thật ra cách phỏng vấn thuộc phần hai này không phải là chuyện không nên làm, nhưng cũng giúp chúng tôi có thể nhận định rõ ràng về các chủ ý phi dân chủ của các tác giả/người làm việc liên quan đến truyền thông báo chí cũng như các giới hạn của ngôn ngữ và dịch thuật. Điều này ông Siemon-Netto cũng đã đề cập tới trong quyển hồi  ký để phê phán các chủ đích và hành động không trung thực của giới truyền thông cánh tả tại Hoa Kỳ trong thập niên 1970.

Tóm lại, đây là việc làm với các quyết định không thiếu tính chính trị. Chúng tôi sẽ đề cập rõ điều này thêm trong phần 3.

(2)          Trách nhiệm dịch thuật và phỏng vấn:

Qua nhận xét mà chúng tôi đã đưa ra trong phần 1(b), câu hỏi cần được đặt ra là làm thế nào để tạo sự cân bằng chính xác trong vấn đề dịch thuật/phỏng vấn? Ai là người đảm nhiệm giám sát cho việc chỉnh sửa/sắp xếp nhân viên cho các công việc phỏng vấn/phỏng vấn/chuyển dịch này? Tại sao việc dịch thuật này lại đi ngược với tôn chỉ hoạt động—nhất là “không bè phái”—mà chương trình phát thanh lặp đi lặp lại hằng ngày trên sóng? Việc giám sát dịch thuật/phỏng vấn thuộc các vị điều hành nào?

Chúng tôi thiết nghĩ các quý vị đã từng có kinh nghiệm sống tại miền Nam Việt Nam và thuộc cấp cao hơn hai nhân viên này chẳng lẽ không có trách nhiệm giám sát kiểm chứng nhằm gắn liền với tôn chỉ “độc lập” và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp hay sao? Hơn thế nữa, tại sao không có sự sắp xếp giúp cho một ký giả miền bắc có thể làm việc với một nhân viên miền nam thuộc thế hệ thứ nhất hay 1.5 đã từng sống hoặc hiểu kinh nghiệm của người miền Nam trước năm 1975 để cùng trao đổi đối thoại và tra dò kiểm chứng trước khi cho ra đời các chuyển dịch và phỏng vấn mang tính lịch sử và chính trị như thế này?

(3)          Tầm ảnh hưởng của viêc chuyển ngữ sai sót lớn này:

Như đã đề cập ở trên, đám đông thính giả mà quý đài nhắm vào là đa số dân chúng trong nước tức là nhữnng ai không biết hoặc không rành Anh ngữ hay/và không hề biết về các sản phẩm văn hóa/lịch sử đề cập đến cũng như kinh nghiệm sống của kẻ bị trị và đàn áp bởi CSVN trong vòng 70 năm nay. Điều đó đồng nghĩa với một tầm ảnh hưởng tiêu cực của truyền thông trong việc định hướng dư luận và mang tính phi dân chủ. Ngoài ra, dù vô tình hay cố ý, việc chuyển ngữ mang tính chủ đích này đã làm lợi cho nghị quyết 36 của ĐCSVN.

Nói một cách khác, ngôn ngữ thì không tránh khỏi tính chính trị dù ta cố tìm cách bào chữa và cho nó chỉ là “từ vựng” mang tính trung lập. Dịch thuật, do đó, bị giới hạn vì bản sắc và phẩm chất của bản dịch cuối cùng chịu ảnh hưởng của người mang trách nhiệm chuyển dịch–không những chỉ ở mức độ khả năng và trình độ mà còn do thành kiến định chế từ kinh nghiệm sống và bối cảnh văn hóa và không gian không gian chính trị–nơi mà từ đó họ đã sinh trưởng. Hơn nữa, người điều hành trong giới truyền thông phải chịu một trách nhiệm lớn một khi việc định hướng dư luận đã trở thành tiêu cực và ở mức độ nghiêm trọng.

Bản Anh ngữ của lá thư này sẽ được chuyển đến đài RFA và các tác giả/dịch giả liên quan đến hồi ký này trong vài ngày tới. Chúng tôi hy vọng sẽ sớm có phúc đáp của ban điều hành chương trình RFA/Việt Ngữ về vấn đề nghiêm trọng này.

Kính thư,

VietSoul:21

Uwe Siemon-Netto – Phía Sai Trái Đã Thắng

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Việt Nam on 2014/03/11 at 22:46

BBT:  Dưới đây là bản dịch của VietSoul:21 cho một bài luận mang tính tổng hợp mới đây mang tựa đề The wrong side won của Tiến Sĩ người Đức Uwe Siemon-Netto.

Đây cũng là bài dịch thứ ba của chúng tôi trong loạt bài viết liên quan đến một cựu phóng viên quốc tế người Đức đã tường thuật nhiều sự kiện lớn trên thế giới trong vòng 57 năm chẳng hạn như việc xây dựng và sự sụp đổ của bức tường Berlin, cuộc chiến 6 ngày giữa Ả Rập và Do Thái, cuộc Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Cộng, và vụ ám sát Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy.

Ông Siemon-Netto nguyên là tổng biên tập về tôn giáo của United Press International, hiện là bình luận gia quốc tế và một nhà thần học (không phong chức) của đạo Lutheran. Ông là sáng lập viên của Center for Lutheran Theology and Public Life (CLTPL) và chủ tịch của tổ chức “The League of Faithful Masks” đặt bản doanh tại Capistrano Beach và trường Concordia University Irvine, California.

Với tư cách một nhà báo, ông chuyên về những đề tài liên quan đến niềm tin, xã hội và ngoại giao. Ông hiện là cộng tác viên thường trực của tờ “The Atlantic Times,” một tờ báo tiếng Anh hàng đầu của giới báo chí Ðức tại Mỹ.

Mối quan hệ của ông Siemon-Netto đối với Việt Nam rất mật thiết. Trong khoảng thời gian năm năm (từ năm 1965 cho đến năm 1969 và sau đó một lần nữa vào năm 1972) với tư cách phóng viên chiến trường tại Việt Nam, ông đã chứng kiến tội ác Việt Cộng tại Huế kỳ Mậu Thân 1968, trong đó một số người quen của ông là 3 bác sĩ người Ðức cùng với vợ của một người đang làm việc thiện nguyện tại trường Y Khoa Huế đã bị thảm sát. Ông còn là nhân chứng của một số xung đột khủng khiếp, đặc biệt là trận chiến đẫm máu tại thung lũng “Ia Drang” trong năm 1965.

Sau hai bản dịch cho các điểm sách của Michael PotemraJoseph Reitz, chúng tôi chọn dịch tiếp bài thứ ba là bài viết của chính tác giả vào cuối năm vừa rồi trên tạp chí The American Legion–một tạp chí chuyên về các đề tài liên hệ đến các cựu chiến binh Hoa Kỳ.

Trong bài viết này ông đã dùng ngòi bút qua kinh nghiệm xương máu tại chiến trường Việt Nam để mô tả tội ác khủng khiếp của Cộng sản. Ngoài các chuyện kể cảm động từ các nhân chứng đã sống trong những giây phút cuối cùng của tháng 4 năm 1975, ông kể lại cảm xúc của mình đối với thành phần sinh viên và trí thức cánh tả với rừng cờ Mặt Trận GPMNVN khi đang sống tại Paris trong cùng khoảng thời gian đó.

Ông cũng không quên phê phán thái độ không trung thực của giới truyền thông Hoa Kỳ vào thời kỳ chiến tranh ấy. Ông còn dùng dẫn chứng để bạch hóa chuyện phương Tây không có các phương tiện tâm lý và chính trị để chống lại một cuộc chiến tranh kéo dài.

Đọc bài viết này chúng ta có thể thấy được tại sao sau hơn nửa thế kỹ mà tác giả vẫn không thể quên vô số nạn nhân vô tội do Cộng sản gây ra trước và sau khi có cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam bắt đầu từ năm 1975. Đây là bài viết dựa vào quyển hồi ký mới của nhà thần học này mang tựa đề Đức: A reporter’s love for a wounded people xuất bản vào năm ngoái 2013.

Ngay đầu cuốn hồi ký ông đã viết những chuỗi dòng thương nhớ tưởng niệm sau đây:

Tưởng niệm

Cuốn sách này được viết nhằm tưởng nhớ vô số các nạn nhân vô tội trong cuộc xâm chiếm Miền Nam Việt Nam bởi Cộng sản, đặc biệt là:

– Hàng trăm ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị tàn sát trong các làng mạc và thành phố, nhất là tại Huế;

– Hàng trăm ngàn chiến sĩ và công cán chính VNCH đã bị hành quyết, tra tấn hoặc bỏ tù sau khi chiến tranh kết thúc;

– Hàng triệu người đã bị xua đuổi ra khỏi quê hương và hàng trăm ngàn người đã bị chết đuối trong quá trình đi tìm tự do;

– Các chiến sĩ VNCH đã anh dũng chiến đấu khi đã mất tất cả và các tướng lãnh oai hùng đã quyên sinh vào những giờ phút cuối cùng;

– Các thanh niên miền Nam và Bắc Việt Nam động viên vào quân ngũ đã bỏ mạng trong cái gọi là “chiến tranh giải phóng” nhưng đã không mang lại tự do cho ai;

– 58.272 binh lính Hoa Kỳ, 4.407 Đại Hàn, 487 Úc; 351 Thái và 37 Tân Tây Lan đã hy sinh tại Việt Nam ;

– Các đồng hương người Đức của tôi, trong đó có BS Horst-Günther và Elisabetha Krainick, BS Alois Alteköster, BS Raimund Discher, GS Otto Söllner, Bá Tước Hasso Rüdt von Collenberg và nhiều người khác đã đến như những người bạn và phải trả giá bằng mạng sống của họ.

Trong tư cách một phóng viên và nhân chứng lịch sử, tác giả sau đó đưa ra các dữ kiện tình tiết liên quan đến nạn nhân của một cuộc chiến mà bên sai trái đã thắng và chia xẻ nhiều kỹ niệm khó quên trong suốt hồi ký của mình.

Qua các phân tích và chứng minh chiến thắng của Cộng sản Việt Nam đặt trên căn bản của tội ác, ông không chấp nhận chiến thắng đó là một cuộc giải phóng. Ông đàm luận rằng phe sai trái đã thắng nhờ vào khủng bố, tàn sát và phản trắc.

Hồi ký của ông đã được ra mắt tại quận Cam tại California vào dịp Quốc Hận năm ngoái với hai phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt. Phiên bản tiếng Việt là Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc nhiều đau thương được hai biên tập viên của Diễn Ðàn Cựu Sinh Viên Quân Y dịch. Hai cựu sinh viên quân y này là Nha sĩ Lý văn Quý tại Little Saigon/Quận Cam và Dược Sĩ Nguyễn Hiền tại Hòa Lan đã “dịch vừa sát nghĩa vừa đượm hồn Việt”. Quý vị có thể tham khảo videobài nói chuyện của tác giả (hay bản dịch tiếng Việt) trong dịp sinh hoạt này của Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y với sự hỗ trợ của tổ chức Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ và Tù Ca Xuân Điềm.

Phiên bản tiếng Đức đã xuất hiện và bản tiếng Anh vừa tái xuất bản vào năm nay với nhiều bổ túc và sửa chửa. Điều bắt mắt là tít cho bìa tiếng Đức, “Mein Vietnam. Warum die Falschen siegten”–tạm phỏng dịch “Việt Nam của tôi: Tại sao bọn Sai Trái lại chiến thắng?”. Ngược lại trong lần tái bản tiếng Anh này thì ông đã cho đặt thêm cụm từ “Vinh quang của sự Phi Lý” (Triump of the Absurd) lên tựa đề ngoài bìa sách và xử dụng thuật ngữ “bị bỏ rơi” thay vì “nhiều đau thương” khi nói đến dân tộc Việt Nam.

Một số chương mẫu (Preface, Chapter 1-“Comme la mer, comme le ciel”, and Epilogue) trong nguyên bản tiếng Anh có thể tìm thấy trên trang nhà của tác giả. Quý bạn cũng có thể tìm đọc các chương mẫu bằng Việt Ngữ tại các trang mạng nối sau đây:

Chương 1: Như biển cả, như bầu trời

Chương 15: Tết Mậu Thân: Hỏa ngục Huế

Đoạn kết: Hậu quả của khủng bố và hiệu lực của hy vọng

Toàn quyển (do ông Lý Văn Quý &  Nguyễn Hiền dịch, tại trang của ông Phan Ba): Vinh Quang của Phi Lý

Nhân dịp 30 tháng 4 năm nay ông sẽ đi một vòng Châu Âu để ra mắt sách. Nhưng trước tiên ông Siemon-Netto sẽ ra mắt hồi ký bằng Đức ngữ của mình tại Hội Chợ Sách được tổ chức ngay tại nơi ông đã sinh trưởng—thành phố Leipzig (Đông Đức cũ). Quý vị có thể mua sách tại Amazon hay trang nhà của tác giả, http://www.siemon-netto.org hoặc viết thư liên lạc với tác giả tại siemon-netto@siemon-netto.org hay quyvanly@aol.com

Đọc tiếp »

Trí trá loài nhai lại

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Tạp văn on 2015/04/11 at 11:57

Hổng biết cắc cớ làm sao mà đầu mùa nạn tháng Tư này tui lại lò mò đọc được quyển sách “tuyển” dành riêng cho giới học thuật với tựa đề “Bốn thập niên qua – Việt Nam, Hoa-kỳ và Di Sản Cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai[1].

Khi tui mới đọc chương đầu “Di Sản Biết Trước – Khai quật gốc rễ Việt Nam thời hậu chiến[2] của giáo sư, tiến sĩ Ngô Vĩnh Long thì tui ngã ngửa. Mèn đéc ơi tui tưởng là tui đang đọc tài liệu thuộc ban tuyên huấn của đảng csvn. Tỉnh hồn dậy thì mới biết là tui không phải đang sống ở đầu thập niên 70 trước ngày mất nước mà là bốn thập niên đã qua.

Tui vốn dĩ sinh sau đẻ muộn. Vào ngày 30-4-75 thì tôi chỉ vừa mới 17 tuổi, chưa đủ tuổi để đi quân dịch và không tham gia vào cuộc chiến. Nghĩa là tui hổng có gì dính dáng đến chính quyền VNCH ngoại trừ được lơn tơn đi học, đi chơi khỏe re trong cuộc sống tự do cho đến ngày mất nước.

Tui thuộc vào diện loi choi, cỡ em út chàng sinh viên VNCH du học Ngô Vĩnh Long. “Giải phóng” vào tui bon chen cũng chui vào đại học được mấy năm hà. Nhưng “tự do là cái con c..”[3], chịu đời hổng thấu nên tui thối lui bỏ chạy. Mà phận đời tỵ nạn cộng sản lo lắng tứ bề thì hổng có ăn học đến nơi đến chốn. So với chàng sinh viên VNCH du học được học bổng tiến thân có bằng tiến sĩ, giáo sư với chữ tài chắc nhỉnh nhỉnh hơn một bồ thì chữ nghĩa của tui chỉ vừa đầy cái lá mít. Trầy vi tróc vẩy lắm thì tôi mới đọc xong hết bài tiểu luận hàn (hàng) lâm (lầm).

Toàn thể bài tập trung vào những năm sau cuối của nền Đệ Nhị Cộng Hòa và là một bản cáo trạng về chính quyền “Thiệu”, Sài Gòn đàn áp thành phần thứ Ba.  Kết luận của bài viết là vì lý do đó mà di sản hậu chiến đồng nghĩa với việc không có một chính quyền hòa hợp dân tộc cho Việt Nam.

Cái kết luận này coi bộ nó hươm hướm vừa đánh vừa xoa theo lời phát biểu của ông Nguyễn Thanh Sơn ca bài con cá hòa giải, hòa hợp. Lũ “đĩ điếm, trộm cướp, ngụy quân, ngụy quyền phản quốc bỏ nước ra đi” giờ đã thành “khúc ruột ngàn dặm” trong “tình tự dân tộc” dưới chiêu bài hòa giải, hòa hợp rồi mà anh Long. Sao anh Long lại lên dây cót trật nhịp dzậy.

Đọc xong tui có cảm tưởng là ông Long này hoặc có mối tư thù với ông Thiệu hoặc có mối thù truyền kiếp với chính quyền VNCH. Toàn bài ông kết tội chính quyền VNCH vi phạm ngừng bắn, đàn áp thành phần thứ Ba, và dồn đẩy Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) ở thế phản công. Ông hăng say “gài khung” định hướng người đọc về “chế độ Thiệu (Kỳ)”, “chính quyền Sài Gòn” tồi tệ, ác ôn và tung hê thành phần thứ ba, MTGPMN tiến bộ vì “hòa bình” và “độc lập”.

Ông Long kết luận như thế này: “Chế độ đã thể hiện bản thân độc tài không chỉ trong các biện pháp đàn áp của chính quyền trung ương mà còn bởi sự lạm quyền sâu rộng trong tất cả các lãnh vực xã hội. Một phần nguyên nhân gốc rễ của vấn đề bại hoại này là do trật khớp, phân cực, và đàn áp các phong trào xã hội và chính trị nêu trong chương này. Nếu việc đàn áp lực lượng Thành phần thứ Ba không xảy ra vào năm 1973-1975, di sản chính trị của chiến tranh có thể đã khác cho Việt Nam thời hậu chiến.”[4]

Tui không thích màu mè, hoa lá cành, mà cũng không cần phải tế nhị hay lịch sự để nói thẳng rằng bài viết chứa đầy những dối trá trắng trợn vô liêm sĩ. Ông GS, TS này chắc hẳn tin tưởng chắc nịch rằng chẳng có thằng thường dân VNCH nào rờ được vào quyển sách hàn lâm này, hoặc giả rằng có thì cũng không đủ ngôn ngữ, kiến thức, và tài liệu để phản bác những dối trá đầy rẫy trong bài tiểu luận.

Kinh nghiệm bản thân sống 17 năm thanh xuân dưới thời VNCH và (mới sương sương) bốn năm đời tui có đảng (đì) sau 1975 đã cho tui trải nghiệm những sự thật hoàn toàn trái ngược với những gì trong chương.

Ông viện dẫn, “Lực lượng quân đội địa phương bao gồm Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, và Nhân Dân Tự Vệ. Hai nhóm đầu là lính toàn thời gian được tổ chức thành tiểu đội, trung đội dưới sự kiểm soát của Quận và Tỉnh. Nhóm thứ ba là lính bán thời gian, đúng ra nằm trong lứa tuổi 15 đến 18 hoặc lớn hơn 43 tuổi, hoạt động trong làng xã. Trong thực tế bất cứ ai có thể cầm súng đều được bắt vào Nhân Dân Tự Vệ.”[5]

Trong làng xã của tui và mấy lũ bạn từ vùng quê đến tỉnh tui chưa thấy đứa nào dưới tuổi vị thành niên bị bắt vào Nhân Dân Tự Vệ như ông nói. Ông nói cho dân Mỹ ở xứ Huê-kỳ này hổng biết gì thì nó mới tin. Chứ lũ nhỏ miền Nam tụi tui sống tự do, ăn chơi học hành cho đến ngày mất nước. Làm gì có ai buộc phải cầm súng như bọn MTGPMN bắt trẻ em vị thành niên cầm súng giết dân. Hình ảnh, tên tuổi tui trưng cho ông coi nè[6]. Ông suy bụng ta ra bụng người.

1973 – Two teenage Viet Cong soldiers at camp near Cai Lay, one carrying a captured U.S. automatic weapon (Hai lính trẻ em VC tại vùng đóng quân gần Cai Lậy, một em mang súng tự động HK tịch thu.

Hai trẻ em đặc công khủng bố cs bị bắt tại Đà Nẵng năm 1972

Ông lại còn đổi trắng thành đen buộc tội ông Thiệu (VNCH) bắt người dân tản cư ra khỏi vùng cộng sản tấn công và không cho người dân trở lại nơi cộng sản chiếm đóng (vùng “giải phóng” theo từ ngữ tả cảnh hoa lá cành của cánh tả).

Besides generating new refugees, the Thieu regime forcibly relocated refugees from one province to another. On 22 March 1973, the New York Times reported a disclosure by the RVN regime that it had begun moving 100,000 of a planned 600,000 persons from the central provinces into areas directly north of Saigon.

Má ơi, má sống dậy nói chuyện với thằng ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản này cho con. Dưng không mà người ta chạy ra khỏi vùng Việt Cộng và VNCH phải tái định cư họ ở nơi an lành hở. Sau mùa hè đỏ lửa 1972, cộng quân đánh phá miền Trung làm bao nhiêu người dân tan hoang cửa nhà trong cơn loạn lạc. Chạy giặc. Giặc cộng.

Nhà tui ở dọc đường Quốc Lộ số 1 ở miền Trung nên hể cứ có chiến trận là bà con lục tục, gồng gánh chạy nạn cộng sản đi qua hà rầm. Mà luôn luôn là vì quân cộng sản hết “tổng tấn công” rồi “tổng nổi dậy” làm dân sợ phải chạy về vùng tự do, vùng có quân VNCH bảo vệ. Dù còn nhỏ nhưng Má tui cũng dẫn tui đi cứu trợ nạn nhân cộng sản rồi cưu mang cho những người bỏ ruộng, bỏ nhà dưới quê về thị xã ở cho an toàn. Tui chưa thấy có ai đi về vùng “giải phóng” tránh quân VNCH. Ngay cả bản thân tui cũng chạy nạn cộng sản hai lần, mùa hè đỏ lửa 1972 và mùa xuân quốc hận 1975.

danangchaygiac

Dân chúng thành phố Đà nẳng chạy nạn Cộng Sản khi miền Trung thất thủ đầu năm 1975.

Người dân trốn chạy CS từ Huế vào Đà Nẵng trên tàu Trường Thanh

Chạy bộ rồi cũng hết đường chạy vì cộng sản đặt mìn giật sập cầu thì đành mướn thuyền chạy dọc biển vào Nam.

Chạy nạn cộng sản miết hết đường sống ở VN thì vượt biển chạy đi nước ngoài.

Ông làm ơn kiếm được người nào chạy từ miền Nam ra Bắc (ngoại trừ kiểu “con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”) tỵ nạn thì kể cho tui nghe chơi nghe ông Long.

Ông Uwe Simon-Netto, người phóng viên chiến trường người Đức lâu năm tại Việt Nam chứng kiến thực tiễn và viết:

Họ không chạy qua sông Bến Hải về miền Bắc và họ cũng không chạy vào vùng được gọi là giải phóng – ‘giải phóng’ bởi việt cộng. Cho đến giờ phút chót, những người tị nạn chạy vào vùng đất đang bị thâu hẹp dần còn lại của chính quyền Sài Gòn; 2 triệu người chạy vào Đà Nẵng. Đường quốc lộ hướng về Sài Gòn chật kín người chạy nạn làm cản trở cả cuộc tiến công của quân Bắc Việt, và đến hồi kết cuộc thì ‘thuyền nhân’ một số lớn không những bỏ chạy từ miền Nam nhưng từ các cảng miền Bắc nữa. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại có cuộc lưu đày khổng lồ như thế – thời Tàu thời Pháp đô hộ và thời Mỹ. Thế mà họ gọi là giải phóng? Lúc đó tôi ngờ ngợ nhưng bây giờ thì tin chắc rằng lý lẽ đã tử nạn trong cuộc chiến. Và ngay cả trung thực trí tuệ cũng bị sát hại.”[7].

Ông có bao giờ phải chạy giặc không và có chút trung thực trí tuệ[8] nào hay chỉ nhởn nhơ ở Hoa Kỳ đọc tin làm báo cáo láo? Vì ông vẫn chưa tiêu hóa hết cái cặn bã dối trá thời 70 nên đến giờ này đem ra nhai lại?

Rồi ông còn đổ thừa là Mỹ tăng viện trợ kinh tế để biện minh cho vi phạm ngừng bắn bởi quân chính quy miền Bắc và quân MTGPMN. Thì là mà họ bị “buộc” phải tấn công.

Chính phủ Cách mạng Lâm thời (CMLT) xem hành động của Quốc hội Hoa Kỳ (gia tăng viện trợ kinh tế cho miền Nam Việt Nam, 450 triệu USD cho ngân sách 1975, 100 triệu hơn năm 1974) như là một cam kết mới cho chính quyền VNCH. Để đáp trả, quân đội CMLT gia tăng phản công chống lại lập trường quân sự hiếu chiến của Thiệu, và đến đầu tháng Hai năm 1975, tám quận và một tỉnh (Phước Long) rơi vào tay CMLT.”[9]

Ai cũng rõ cái chiến thuật “vừa đánh, vừa đàm”[10] của cs miền Bắc. Đàm cho có, đánh cho được.

Ông còn chạy tội cho quân xâm lược CS Bắc Việt cùng quân MTGPMN “phản công” và buộc tội quân đội VNCH “tấn công”? Ai vi phạm lệnh ngừng bắn tết Mậu Thân, ai vi phạm hiệp định Paris gia tăng vận chuyển chiến cụ vào miền Nam? Ai đem tăng T54, tàu tên lửa[11], pháo 122, 130 li, B40, AK47 vào Nam?

Kinh nghiệm bản thân tôi thì tôi rõ ràng. Nhưng nói chuyện với giới hàn lâm mà không trích dẫn thì má nó khi (dễ), và bị gạt bỏ là không có bằng chứng. Thời đại in-tờ-nét bây giờ thì những thường dân i-tờ như tui cũng không khó nhọc gì tìm ra nguồn trích dẫn. Chắc là trời cao run rủi hay sao mà tui lại tìm được bài báo phân tích nguồn trích dẫn (hay nói đúng hơn là lời thú tội) từ ngay miệng kẻ sát nhân[12].

Ông hoài niệm ngây thơ cụ “mãi mãi tuổi 20” với cái thành phần thứ Ba với cái ảo tưởng rằng nó tựa như một thực thể chính trị có quyền lực và khả năng làm cái kiềng ba chân cho miền Nam Việt Nam. Hang ổ rắn cộng sản miền Bắc đã mưu mô đẻ ra cái bình phong MTGPMN và thâm nhập, giật dây thành phần thứ Ba cho giấc mộng cưỡng chiếm miền Nam rõ ràng trong các tài liệu lịch sử của đảng csvn. Thực tế đã tạt gáo nước lạnh vào mặt và tát vào má của cả miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 mà ông vẫn còn giả ngơ, làm lơ, phớt lờ sự thật.

Chỉ có những người thiếu trung thực trí tuệ tối thiểu mới sử sự như vậy. Họ là những kẻ trí trá tri thức[13], dùng hào quang “trí thức” để bao biện, bịp bợm cho khuyết điểm sai lầm của họ.

Không ít những thành phần cánh tả Tây phương bừng tỉnh từ cái tát vào mặt sau ngày 30 tháng 4 khi họ hiểu được bản chất của bọn cầm quyền csvn. Joan Baez, người nghệ sĩ cánh tả nhận sai khi biết mình sai và quay lại 180 độ với csvn. Baez đã ra tối hậu thư cho Đại Sứ LHQ của Việt Nam trước khi đăng thư ngỏ lên án chính quyền csvn bất nhân giam cầm, hành hạ cựu quân nhân VNCH và các nhà bất đồng chính kiến[14]. Baez cũng vận động với Tổng thống Carter đương thời cho hạm đội 6 cứu vớt thuyền nhân lênh đênh trên biển cả[15]. Còn kẻ trí trá tri thức như ông thì không nghe, không nhìn, không nói.

Ông phát biểu về thành phần thứ ba thời hậu chiến “Khi Mặt trận giải phóng đánh chiếm miền Nam, thì thành phần thứ ba này cũng bị dẹp luôn.[16]

Coi bộ cái trí trá tri thức, não trạng phẳng của ông không bao giờ đi trật đường rầy nên ông tỉnh queo, làm ngơ, phớt lờ rằng cột trụ cho cuộc chiến tranh đánh chiếm miền Nam là chính quyền Hà Nội, là quân chính quy cs miền Bắc. Sau hiệp định Paris họ đã chuẩn bị sửa sang đường mòn HCM, xây cất khu hậu cần, đường dẫn xăng dầu, tích trữ vũ khí để tấn công cưỡng chiếm miền Nam.[17] Ai dẹp thành phần thứ ba, ai cho MTGPMN về vườn?

Tui xin được gọi ông giáo sư, tiến sĩ Ngô Vĩnh Long là “ông thần” bởi vì ông đã phán những diễn giải mà ngòi bút phù thủy của ông trở thành câu quá ư chắc nịch đầy dữ kiện làm sự thật dường như không thể chối cãi. Vì chỉ có những người từ “trên trời rơi xuống”, không cần nhìn gương chiếu hậu, không mảy may ngó trước ngó lui mới coi người cõi trần này là những thằng dốt. Và đương nhiên chỉ có “ông thần” mới dám phán những kết luận trời ơi đất hỡi đó.

Nếu tôi nhớ không lầm thì ai đó có nói “lịch sử được viết bởi người chiến thắng”. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng lịch sử được viết bởi sử nô phục vụ cho quyền lực đương thời để trở thành chính sử. Và không thiếu những “sự thật” lịch sử được tô hồng bởi người bưng bô.

Theo giới hàn lâm thì bây giờ lịch sử được chia theo ba phương hướng: lịch sử truyền thống, lịch sử xét lại, và dã sử[18]. Bốn thập niên đã qua, một khoảng thời gian đủ để các thành phần cánh tả, các sử gia có thời gian để nhìn lại và nhận xét sự việc một cách khách quan và công bằng hơn cho phe thua cuộc. Keith Taylor, Edward Miller, Nguyễn thị Liên Hằng, Pierre Assalin, v.v… là một số sử gia bắt đầu quan tâm vào lịch sử xét lại để đưa cái nhìn của họ trung thực hơn về Miền Nam Việt Nam.

Cá nhân những người dân miền Nam Việt Nam vượt biên, vượt biển, nạn nhân cộng sản như chúng tôi đã buộc phải viết lên những trang dã sử[19], lịch sử thuyền nhân vì không ai (muốn) viết cho bên thua cuộc.

Riêng ông Long thì “mãi mãi tuổi hai mươi” trong chân lý “từ đó trong tôi bừng nắng hạ”[20] chẳng cần phải nghĩ lại, hay xét lại làm gì cho nó lăn tăn cái lương tâm.

Lúc tui học tiểu học thì được dạy rằng con bò thuộc về loại nhai lại với bao tử 4 phòng. Nó nhai lại bởi vì nó không có nhiều răng (hàm trên không có răng cửa và răng nanh), nhưng lại ăn nhanh nên không thể tiêu hóa cỏ vốn dĩ nhiều chất xơ. Khi được nhiều lần tiếp xúc với các giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ qua những buổi tham luận tại trường đại học Washington với sự tham dự của các gs, ts Hoa-kỳ, Việt Nam, và quốc gia khác thì tôi mới khám phá ra có một loài nhai lại khác.

Đó là những con bò trong giới hàn lâm.

Tuy nhiên con bò thì nó chỉ nhai lại những gì nó ăn vào. Còn loại bò hàn lâm thì khác hẳn ở chỗ là họ nhai đi, nhai lại những gì họ thu thập sau khi được mớm bởi thầy cô trong quá trình làm luận án, cũng như nhai đi nhai lại các “tinh hoa cặn bã” trong công trình của đồng nghiệp, đồng sàng đồng mộng cùng phe (tả) và các trích dẫn nguồn không kiểm chứng.

Ông Long tuyên bố “Tôi là nhà phân tích chính trị độc lập, không bao giờ nói dối, luôn nói thẳng suy nghĩ của mình.” Quả thật là ông không nói dối vì ông chuyên trích dẫn có nguồn (đúng hay sai không cần kiểm chứng). Nhưng ông là tên trí trá tri thức bằng cách giả ngơ, làm lơ, phớt lờ sự thật. Ông không hề nhắc đến ổ rắn độc Hà Nội, làm tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế, làm nghĩa vụ quốc tế  tiền đồn phe Xã Hội Chủ Nghĩa gây bao xương máu cho nhân dân hai miền Nam Bắc.

Ai đi xâm lược, ai gây chiến ông đà biết rõ.

MTGPMN, CPCMLT, thành phần thứ ba đều là những bình phong và con rối cho cơn sát máu của nhà cầm quyền Hà Nội mà ông tung hê như là những lực lượng độc lập. Ông không chấp nhận việc “TT Hoa Kỳ Nixon tuyên bố tiếp tục công nhận chính quyền VNCH là chính quyền hợp pháp duy nhất của miền Nam Việt Nam và lời phát biểu của ông Nixon công nhận VNCH là ‘chính quyền hợp pháp duy nhất’ gieo hạt mầm cho một cuộc chiến mới[21].

Ông lên án những phát ngôn của chính quyền VNCH thời bấy giờ “Thành phần thứ ba bị giật dây bởi cộng sản”, “Chính sách 4 không: không công nhận kẻ thù, không chính phủ liên hiệp dưới bất cứ ngụy trang nào, không trung lập hóa thiên cộng ở miền Nam Việt Nam, không nhượng bộ đất đai cho cộng sản”.

Tuy nhiên, khi nhìn lại lịch sử thì nó quả thật hoàn toàn đúng không sai một li. Sau khi đồng minh phản bội bán đứng VNCH cho Trung Cộng thì số phận mất nước bắt đầu trang sử nô lệ nội-thực-dân cs trên toàn đất nước Việt Nam.

Ông Long với nhà báo, điệp viên Phạm Xuân Ẩn là “bạn lâu năm”. Ông Thomas Bass, cũng là bạn ông Ẩn, một lần có hỏi là khi chết ông Ẩn sẽ đi về đâu.

Ông Ẩn cười cười nói rằng ông không lên thiên đàng vì khi sống đã nói láo quá nhiều. Mà chắc ông Ẩn cũng không bị đày xuống địa ngục vì nơi đó đã chật đầy các đồng chí cộng sản rồi. Ngay cả khi chết ông Ẩn cũng yêu cầu “đừng chôn tôi gần cộng sản”.

Về chuyện ông Thomas Bass phàn nàn việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam thì ông Long lại biện hộ: “Trước hết, Thomas Bass là người nước ngoài đến phỏng vấn ông Ẩn, thì ông Ẩn đã kiểm duyệt tới 90% những gì ông đã nói với Thomas Bass rồi, thế thì những gì ông đã nói cho Thomas Bass có thể bị thêm người khác kiểm duyệt, ví dụ trong nước không thích thì cắt thêm 2% nội dung cuốn sách nữa, theo tôi, cũng chả có vấn đề gì. Vấn đề tự kiểm duyệt rất quan trọng. Ở bất cứ quốc gia nào cũng vậy thôi, đều có chuyện tự kiểm duyệt.[22]

Ông Ẩn đã chết rồi nên không ai biết là ông ta có tự kiểm duyệt tới 90% hay không, nhưng có lẽ con số đó hoàn toàn ăn khớp với kinh nghiệm bản thân theo lối sống của ông Long. Thế thì “luôn nói thẳng suy nghĩ của mình” chắc không phải là một lời nói thật.

Ông Phạm Xuân Ẩn dù sống đằng sau bức màn tre chế độ độc tài cs (vì đi vượt biên đôi ba lần không được) nhưng cũng dám nói thật dù chỉ qua câu truyện diễu cợt. Còn ông Ngô Vĩnh Long sống ở xứ tự do nhưng lại trí trá tri thức.

Tuổi của ông cũng chỉ còn mười mươi năm nữa. Ông Ngô Vĩnh Long có bao giờ thử tự trả lời câu hỏi của ông Thomas Bass không?

© 2015 Vietsoul:21

[1] “Four Decades On – Vietnam, the United States and the Legacies of the Second Indochina War”, 2013, Duke University Press

[2] Ngô Vĩnh Long, “Legacy Foretold – Excavating the roots of postwar Viet Nam” in “Four Decades On” (Durham: Duke University Press, 2013). Sách đã dẫn, tr. 16-43.

Ngô Vĩnh Long, Member, Board of Science, Tran Nhan Tong Academy. He is a professor of History at Maine College, Orono, Maine, US. Ngô Vĩnh Long thành viên Hội đồng Khoa học Học Viện Trần Nhân Tông. Giáo sư sử học tại Trường Đại Học Maine, thành phố Orono, tiểu bang Maine, Hoa-kỳ.

[3] Từ đũng quần vươn lên…, gocomay’s blog

[4] Sách đã dẫn, tr. 39. “Authoritarianism has manifested itself not only in repressive measures by the central government but also by widespread abuses of power at all levels of society. Some of the roots of this sorry state of affairs go back to the dislocation, the polarization, and the repression of social and political movements outlines in this chapter. Had the repression of the Third Force not occurred from 1973 to 1975, the politcal legacies of the war might have been quite different for postwar Viet Nam.”

[5] Sách đã dẫn, tr. 20-21. “These local military forces, called by American military men ‘Oriental Minutemen,’ were the Regional Forces, Popular Forces, and the Popular Self-Defense Forces (PSDF). The first two groups were full-time soldiers organized into companies and platoons under provincial and district control, respectively. The third group consisted of part-time militia, supposedly boys and men age fifteen to eighteen or older than fourty-three, operating at the sub-district or village level. In reality, anybody who could carry a gun was good enough for the PSDF.”

[6] “Cách mạng” đưa trẻ em vào chỗ chết làm bia đỡ đạn.

[7]The wrong side won”, Uwe Siemon-Netto

[8] Intellectual honesty, “Intellectual honesty is honesty in the acquisition, analysis, and transmission of ideas. A person is being intellectually honest when he or she, knowing the truth, states that truth.

There are disincentives to intellectual honesty. Academics may find themselves pressured to argue for the stances of their benefactors, including governments and private entities that fund grants (in fact, this is trained into them in education, as the same pressures are exerted by teachers and professors upon their students).”

“Trung thực tri thức là trung thực trong việc thâu thập, phân tích, và truyền đạt ý tưởng. Một người được coi là trung thực tri thức khi họ biết sự thật và nói lên sự thật.

Có nhiều bất lợi, phản khích lệ trong trung thực trí tuệ. Giới hàn lâm có thể thấy chính mình bị áp lực để tranh luận cho quan điểm của các nhà bảo trợ họ, bao gồm cả các các tổ chức chính phủ và tư nhân cung cấp ngân khoản tài trợ (trong thực tế, điều này được huấn luyện trong giáo dục với những áp lực tương tự do các giảng viên và giáo sư tạo ảnh hưởng đến học sinh của mình).”

[9] Sách đã dẫn, tr. 36-37. “The PRG evidently interpreted Congress’s action as a renewed commitment to the RVN regime. In answer, the PRG forces increased their counterattacks against Thieu’s aggressive military stance, and by early January 1975, eight districts and a province (Phuoc Long) had fallen into the PRG’s hands.”

[10] “Vừa đánh, vừa đàm”, Tạp chí Cộng sản

[11]3 tàu tên lửa VN trong chiến dịch mùa xuân 1975”, kienthuc.net

[12]40 năm chân tướng xâm lược bị lật ngửa”, Dân Làm Báo

[13] Intellectual dishonesty, “Some intellectual dishonesty can be subtle. For example, relevant facts and information may be purposefully omitted when such things contradict one’s hypothesis, or facts may be presented in a biased manner or twisted to give misleading impressions.”

Trí trá tri thức, “Một số trí trá tri thức rất tinh tế. Ví dụ, những dữ kiện và thông tin đáng kể (liên quan, phù hợp) có thể bị cố tình loại bỏ khi các dữ kiện đó mâu thuẫn, trái nghịch với giả thuyết đưa ra, hoặc sự kiện có thể được trình bày một cách thiên vị hoặc bóp méo để tạo ra ấn tượng sai lệch.”

[14] Joan Baez’s Open Letter to The Socialist Republic of Vietnam

[15] “Chỉ cần có vài ngày để tổ chức buổi hòa nhạc tại Đài tưởng niệm Lincoln vào ngày 19 tháng 7 năm 1979 và xin giấy phép cho cuộc tuần hành. Tôi viết một lá thư cho TT Carter, trao tận tay cho ông, giải thích rằng cuộc tuần hành không phải là biểu tình phản đối, nhưng đúng hơn là biểu dương hậu thuẫn của người dân Hoa Kỳ cho bất cứ nỗ lực nhân đạo của TT để giúp đỡ thuyền nhân. Tôi đề nghị gởi hạm đội 6 giải cứu thuyền nhân và mời ông tham dự buổi hòa nhạc.

Ông không đến nhưng hơn 10,000 người đến tham dự buổi hòa nhạc. Khi buổi hòa nhạc chấm dứt chúng tôi thắp nến đi tuần hành đến nhà Trắng. Chúng tôi cầu nguyện ngay trước cổng nhà Trắng và sau đó tôi trở lại khách sạn. Tôi trở về phòng khách sạn kịp lúc mở máy truyền hình thấy Jimmy Carter bước qua sân cỏ nhà Trắng và nâng người lên ngay giữa phía sau cổng sắt lớn tuyên bố là ông sẽ gởi Hạm đội 6 đến Biển Đông. Tôi gọi điện thoại hỏi ông Tư lệnh Hải Quân rằng có thật vậy không, và ông nói đúng như vậy, tổng thống sẽ gọi cho tôi vào khoảng 9 giờ sáng ngày mai. Tổng thống gọi và chúng tôi chúc mừng nhau cho mọi việc suông sẻ.”

“It took only a few days to plan the concert at the Lincoln Memorial July 19, 1979, and arrange for permits for a march. I wrote a letter to President Carter, which was delivered to him by hand, explaining that the march was not in any way a protest, but rather a show of support from the American people who would back him in any humanitarian effort he made on behalf of the boat people. I suggested sending the Sixth Fleet out on a rescue mission, and then invited him to the concert.

He didn’t come, but the concert was attended by ten thousand people. When it ended, we marched to the White House carrying lit candles. We prayed at the gates, then I went back to the hotel. I got to my room just in time to turn on the television and see Jimmy Carter come out on the White House lawn, hoist himself up on the inside of the great iron fence, and announce that he would send the Sixth Fleet into the South China Sea. I called the navy undersecretary to see if it was true, and he said it was, and that the President would call me the next morning at around nine o’clock. He did and we exchanged mutual congratulations.”, Hồi ký Joan Baez

[16] RFA

[17]Bảo đảm kỹ thuật trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975”, qdnd.vn

[18] Traditional history, revisionist history, and wild history.

[19] Dã sử (một từ ngữ truyền thống Việt Nam và Trung Quốc dành cho lịch sử ngoại biên, không chính thống) là một phương thức tiếp cận lịch sử không dễ dàng trong chu kỳ xét lại-phản xét lại. Theo nguồn gốc và động cơ thì nó đối nghịch với lịch sử chính thống mà quan điểm dân dã (từ dưới lên trên), không chính thức, không được thừa nhận và đạp đổ hoặc (có lẽ quan trọng hơn nữa) không đếm xỉa đến phiên bản chính thức của sự kiện được diễn giải bởi chính quyền.

[20] “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời chân lý chói qua tim”, hai câu đầu bài thơ Từ Ấy của Tố Hữu

[21] Sách đã dẫn, tr. 18. “Nixon … announced that the United States would ‘continue to recognize the government of the Republic of Vietnam as the sole legitimate government of South Vietnam.’ … The statement that Nixon recognized the RVN as the ‘sole legitimate government’ in South Vietnam bore the seeds of a new war.”

[22]Muốn hiểu lịch sử, cần phải hiểu những vấn đề kinh tế“, Báo Lao Động online

Tình yêu , Sự thật, và Việt Nam

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Việt Nam, Văn Chương on 2014/03/08 at 23:36

Điểm sách của Michael Potemra

National Review Online, 18/7/2013

Bản tiếng Anh: “Love, Truth, and Vietnam” by Michael Potema

Ai mà muốn những vết thương của Việt Nam bị toang mở lần nữa? Nhưng sự thống khổ của đất nước đó vẫn là những bài học cho tất cả chúng ta. Uwe Siemon-Netto là một phóng viên chiến tranh thời đó, và ông vừa xuất bản một cuốn hồi ký về nó, Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc nhiều đau thương. Như những hồi ký thực sự xuất sắc, chính những chi tiết nhỏ nhất trong sách đã làm bức tranh lớn trở nên linh động. Siemon-Netto đã chứng minh rằng Bắc Việt là khách hàng quân sự chủ yếu bên ngoài châu Âu của Đông Đức, quốc gia này đã cung cấp mìn gây chết người gọi là PPM-2. Nhiều lần chạy xe dọc quốc lộ 19 ở Việt Nam, ông thấy rằng hầu hết những người bị giết bởi mìn PPM-2 là phụ nữ và trẻ em, bởi vì người dân thường di chuyển bằng xe cộ sơ sài không có khả năng tự vệ so với xe quân sự chuyên chở lính tráng lẽ ra là mục tiêu chính của mìn.

Siemon-Netto không chỉ đơn thuần là một người quan sát từ xa về các tổn thất nhân mạng của thường dân trong cuộc chiến đó. Ông kể lại câu chuyện trong một lần đến bệnh xá của người Đức chữa trị cho thường dân ở Việt Nam, trong khi chiến trận đang diễn ra ở ngoài:

Một bác sĩ trẻ người Đức đang làm việc ráo riết để cứu mạng sống. Trên một bàn mổ dã chiến tôi thấy có một người phụ nữ nằm mê man với lòng ruột phòi ra ngoài một vết thương lớn ở bên trái bụng của cô.

“Bạn có phải là bác sĩ?” Ông BS hỏi.

“Không phải, tôi là phóng viên.”

“Không sao, tôi cần sự giúp đỡ ngay bây giờ. Không còn ai ở lại đây để giúp tôi một tay. Bọn Việt Cộng bắt cóc tất cả. Bạn đi rửa tay ở đằng đó rồi đeo găng tay phẫu thuật vào và hãy tự biến mình thành người hữu dụng.”

Để đặt các bộ phận lòng ruột của người phụ nữ trở lại vị trí cũ, [bác sĩ] đã phải cắt toang bụng cô. Sau đó, ông cần thêm một đôi tay nhét chúng vào bụng qua vết thương hở bên trái của cô. Việc đó thành phận sự của tôi . . . 

Một chủ đề khác mà Siemon-Netto biểu lộ thật mạnh mẽ và rõ ràng là việc chuyện con người ta khoác trên người mình quá dễ dàng một mai rùa kiên cố để phủi lưng (tay) với sự thật. Nhiều năm sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, Siemon-Netto đã về lại Đức:

Tôi tham dự cuộc họp buổi sáng của một tờ báo trí thức Đức nơi tôi làm việc dưới tư cách là một tư vấn biên tập. Công việc của tôi là giúp các biên tập viên và nhà xuất bản này hiện đại hóa tờ báo cổ hũ của họ trong hy vọng rằng nó sẽ đạt tầm cỡ hàng đầu của nước Đức thống nhất . . . .

Các cuộc thảo luận chuyển sang chủ đề cho các câu chuyện tiêu biểu từ Đông Đức cũ.

“Xin xem đây như một đề nghị”, tôi nói. “Sao ta không thử làm một báo cáo chuyên sâu về các nhà sản xuất Đông Đức làm mìn PPM-2, những tàn tích liên quan đến các nạn nhân mà tôi chứng kiến trên dọc cả Quốc Lộ 19 tại Việt Nam? Sao không thử tìm kiếm tài liệu lưu trữ của Đông Đức về bộ máy tuyên truyền cáo buộc Tây Đức đồng lõa trong chiến tranh Việt Nam, và có lẽ đã dẫn đến cái chết của một số bác sĩ và y tá của chúng ta tại Việt Nam?”

Ối trời, tôi đã đạp vào ổ kiến lửa bằng lời gợi ý này! …Dù đây không phải là một tờ báo cánh tả nhưng một số biên tập viên trẻ tự mãn đã trở mặt giận dữ làm tôi tự hỏi có quả thực là thể chế Cộng sản Đông Đức đã thực sự biến mất. Cái ý thức hệ của phong trào sinh viên năm 1968 tôn vinh Hồ Chí Minh đã bắt rễ quá nhiều trong thế hệ của sinh viên tốt nghiệp trường đại học Đức nên bất cứ đề cập nào đến những hành vi vô nhân đạo của Việt Cộng sẽ bị coi là một dị giáo.

Nó cũng không làm tôi ngạc nhiên khi các biên tập viên lớn tuổi, những người lẽ ra phải hiểu biết hơn, vẫn nghĩ là thiếu thận trọng nếu hỗ trợ cho tôi. Nhà thần học Lutheran Dietrich Bonhoeffer một lần từng than vãn là sao mà “lòng can đảm từ công dân quá khan hiếm” ở nước ông ta khi bị Đức quốc xã thống trị…Cái thiếu hụt này nhất định vẫn hiện còn kéo dài ở vài nơi chốn.

Tất nhiên đây không chỉ là một điều thuần tính cách của người Đức: Đây là một xu hướng phổ quát của con người luôn ghét vị thần mang hung tin, và khi sự giận dữ chống lại vị thần sứ giả đưa tin này dâng cao thì ngay cả những người lẽ ra phải hiểu biết hơn cũng làm lơ không bảo vệ sứ giả. Nó làm cho người ta nghĩ đi nghĩ lại trước khi lên tiếng, và ngay cả những ai thực sự dũng cảm cũng không có đủ can đảm để nói lên tất cả sự thật trong mọi thời điểm. Nhưng cuốn sách Siemon-Netto là một minh chứng cho việc phải luôn tiếp tục cố gắng là điều cần thiết.

Người dân Việt Nam đã bị phương Tây bỏ rơi trong những năm thập niên 1970, họ vẫn còn bị áp bức cho đến mãi bây giờ, nhưng chuyện của họ vẫn chưa đến hồi kết cuộc. Siemon-Netto kết luận: “Tôi biết rằng [người Việt Nam] sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa độc tài. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó rồi sẽ xẩy ra.”

Về vấn đề cuối vừa đề cập: Hy vọng là một điều có nhiều mãnh lực. Lúc tôi còn là một cậu bé bắt đầu quan tâm đến chính trị, hồi thời những năm 1970, vì tôi chủ yếu nghĩ rằng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản trong chiến tranh lạnh là một điểm quan trọng mang tính cách sinh tử. Nếu hàng triệu người Mỹ coi việc này thật nghiêm túc và thực sự gắng sức, tôi nghĩ, thế hệ của chúng tôi có thể đặt được nền móng cho vài thế hệ tương lai tạo được chiến thắng cuối cùng và sự thất bại tối hậu của đế chế Xô Viết.

Thế mà khi tôi chưa hết lứa tuổi 20 thì điều đó đã xảy ra.

Trước khi cuốn sách này xuất bản, tôi biết các tác phẩm của Siemon-Netto chỉ qua những văn bản về tôn giáo của ông viết cho UPI, và thông qua sự tham gia của ông ở các cuộc tranh luận trong nội bộ của Lutheran. (Ông là một nhà thần học Lutheran khả kính.) Dù cuốn sách này là một thành tựu quan trọng trong một lĩnh vực hoàn toàn khác, nó đã thấm nhuần các nguyên tắc nhân đạo và tôn giáo trong toàn thể các tác phẩm của ông. Cuốn sách này, như ông cho biết trong phụ đề của mình, là một công trình có gốc rễ từ tình yêu.

Michael Potemra

Hồi ký “Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc bị tổn thương”

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Việt Nam, Văn Chương on 2014/03/08 at 18:05

Điểm sách của Joseph Reitz

Books In Review II, 13/10/2013
Bản tiếng anh: “Đức: A Reporter’s Love For a Wounded People” by Uwe Siemon-Netto–Book Review by Joseph Reitz

Phiên bản hồi ký đầu tiên tiếng Anh (2013)

Phóng viên người Đức Uwe Siemon-Netto đưa chúng ta vào Hài kịch Phi Lý của Việt Nam trong suốt hồi ký mang tên “Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc bị tổn thương” (NXB CreateSpace, 278 trang, 25 đô-la, bản in giấy). Chúng ta cùng với anh chứng kiến những biến cố trong chiến tranh Việt Nam vào những năm 1965-69.

Luận cứ của tác giả–từ chương đầu “Tưởng niệm đến Uwe” đến trang cuối cùng của lời bạt phần kết—là cuộc chiến tranh ở Việt Nam không phải là một cuộc chiến giải phóng. Siemon-Netto không phải là người hâm mộ chuyên chú tâm đến số lượng xác người, nhưng số thương vong và số người di tản loạn lạc được liệt kê trong trang tưởng niệm của cuốn sách quả thật là kinh hoàng.

Việc theo dõi chuỗi sự kiện trong cuốn sách đôi khi gặp khó khăn, nhưng đâu có cuộc chiến tranh nào lại diễn ra trong chiều trật tự. Tác giả mô tả cảnh tra tấn, chết chóc, và mất mát chịu đựng của người dân Việt Nam. Những khoảnh khắc hài hước dù hiện hữu đều lồng trong một đám mây bao trùm bởi sợ hãi.

Tác giả là người sống sót sau các cuộc bỏ bom trong Thế chiến II ở Đức, và điều này có lẽ giúp giải thích tại sao tác giả ít khi đề cập đến những nỗi sợ hãi của chính mình khi ở dưới làn bom đạn. Ông có thừa những lần chết hụt để làm cho hồi ký Đức vô cùng kích thích như bất kỳ tiểu thuyết chiến tranh khác. Cách đối xử với một số đồng nghiệp của ông bị bắt bởi VC cho thấy cuộc chiến đó là một cuộc chiến của hận thù và tàn sát – không phải là một cuộc chiến tranh giải phóng.

Siemon-Netto định nghĩa “hài kịch của sự phi lý” như là sự đặt để hai hiện thực trái ngược cạnh kề nhau. Một trong những cặp hiện thực đối lập trái ngược là bài tường thuật của các phóng viên tại chiến trường và hiện tượng mà ông gọi là cách bóp méo biến dạng các sự kiện ấy khi tường thuật với người dân Hoa Kỳ. Một cặp hiện thực tương phản khác liên quan đến nhu cầu của một quyết tâm rất cần thiết cho một cuộc chiến tranh lâu dài đối nghịch với điều mong muốn của người Mỹ cho một chiến thắng nhanh chóng. Tác giả cho thấy là cả hai tình huống này đã dẫn đến chiến thắng của phe cộng sản.

Hài kịch phi lý này có một dàn diễn viên phong phú cho các nhân vật hơn hẳn bất kỳ sản phẩm nào từ phim trường Hollywood. Các đứa trẻ lấy trộm xe của tác giả để đổi lấy một căn nhà, những người phụ nữ cắt sửa quyết liệt cơ thể của họ để hấp dẫn đàn ông Tây phương có thể là bộ phim hài châm biếm trong một tác phẩm hư cấu. Thế nhưng cuộc chiến và những câu chuyện của tác giả thì không có gì gọi là hư cấu.

Một trong những đồng nghiệp của tác giả có thói quen đến các cuộc họp báo khi đã say mềm và hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn. Tại những cuộc họp báo của [Bộ Tư Lệnh Hỗ Trợ Quân Sự (MACV) thuộc] chính phủ Mỹ, mà các phóng viên thường gọi họ là “Bọn Ngu Xuẩn lúc Năm giờ”, hiếm khi thấy có điều gì quan trọng được công bố cả. Đã từng có một cuộc họp báo mà họ đã dành toàn bộ một tiếng đồng hồ nói chuyện về việc một chiến binh Mỹ đái vào bức tường của một ngôi chùa.

Uwe Siemon-Netto

Cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân năm 1968 có lẽ là buổi trình diễn lớn nhất trên hý trường hài kịch phi lý. Sự kiện này chứng minh một bước ngoặt quan trọng trong cuộc chiến. Phi lý nằm ở chỗ trong khi Bắc Việt và Việt Cộng rõ ràng bị thua trận trên chiến trường thì công chúng Mỹ lại chuyển hướng chống chiến tranh. Trong khi việc cuộc chiến kết thúc là không thể tránh khỏi nhưng máu vẫn tiếp tục đổ thêm gần năm năm sau đó.

Siemon-Netto mở lòng với chúng ta khi ông mô tả trận chiến giành lại thành phố Huế, trong đó hàng ngàn người đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã bị sát hại bởi quân miền Bắc Việt Nam một cách có hệ thống. Tác giả kể về các nấm mộ tập thể của người chết và đôi khi mộ của cả những người bị chôn sống.

Vợ của tác giả, cô Gillian, đã theo chồng đến sống ở Sài Gòn. Cô cũng trải qua chuyện sống dưới lằn đạn qua các trận chiến trên đường phố. Siemon-Netto mô tả các bạo động và nguy hiểm hàng ngày mà người dân Sài Gòn phải gánh chịu trong khi các chuyện này rất hiếm được tường thuật lại ở nước nhà [Hoa-kỳ].

Seimon-Netto hoàn thành mục tiêu của ông khi đưa chúng ta vào trọng tâm của một dân tộc bị thương tổn. Mặc dù ông đã phơi bày mảng đen trong trái tim của kẻ ác, ông cũng đưa chúng ta vào ánh sáng và sự kiên cường của những người tự hy sinh vì yêu đất nước và gia đình họ.

Độc giả của tác phẩm Đức sẽ gặt được nhiều thông tin về cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á, hoặc ít nhất sẽ được nhắc nhở về những điều lãng quên.

Uwe Seimon-Netto lập luận rằng tội ác chiến tranh gây ra bởi những người cộng sản là một phần trong sách lược của họ. Trong khi người Mỹ đôi lúc vi phạm tội ác chiến tranh nhưng tội ác của chúng ta không phải là một phần của chính sách chiến tranh. Điều này giúp tôi có một hy vọng cho tương lai của chúng ta.

Trang mạng của tác giả www.siemon-netto.org.

– Joseph Reitz