vietsoul21

Archive for the ‘Văn Chương’ Category

VĂN NGHỆ SĨ NÊN HỌC HỮU LOAN ĐỂ GIỮ CHÍNH KHÍ TRƯỚC BẠO QUYỀN

In Cộng Đồng, Lịch Sử, Việt Nam, Văn Chương on 2014/08/14 at 17:58

Hạnh Trần: Tặng các bạn câu chuyện về một tình yêu và bản năng tồn tại vô song trong bối cảnh lịch sử ngặt nghèo của Việt Nam. Một truyện hư cấu có giàu tưởng tượng đến đâu cũng không thể hay hơn

Chân dung nhà thơ (wikipedia)

Lời tự thuật của HỮU LOAN, tác giả “MÀU TÍM HOA SIM”

MÀU TÍM HOA SIM
(Nguyên văn của tác giả)

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…


Nhưng không chết

người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Một chiều rừng mưa

Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệrớm

Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)

Hữu Loan

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.

Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:- Thầy có thích ăn sim không ?- Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ …

Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.- Thầy ăn đi.Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:-Ngọt quá.Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

Chín năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”.

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.

Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn …

Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.

Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!

Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông …

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi …

Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.

Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.

Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

© Hữu Loan

Dương Như Nguyện – THÁNG TƯ ĐEN…VỌNG ĐẤT TRỜI

In Cộng Đồng, Văn Chương on 2014/04/17 at 09:08

Viết cho những ai từ 1975 đến nay bước vào một quốc gia mới với tư cách là người tỵ nạn …

Đỏ là đỏ trái tim non
Tại sao đỏ hết giang sơn ngậm ngùi
Tháng tư đen, vọng đất trời
Nén nhang thiên cổ cho người tha hương

Tháng tư đen
Này, tim ta máu đỏ
Trời đất đen
Ai nhuộm đỏ trời Nam?

Cúi đầu thật thấp
Vì đâu vinh?
Vì đâu nhục?

Ngửa mặt lên cao
Làm sao nhớ?
Làm sao quên?

Biếc trời xanh…
Hư vô là bất tận
Làm sao không ngó xuống mảnh linh hồn?
Hay chỉ là dư âm trong tiếng hát
Hận trong lòng chôn nỗi nhớ nhung suông…

Tím thời gian
là rũ rượi không gian
Cờ xếp lại
Ủ ê đời chiến sĩ

Cờ thôi bay, giang sơn nằm đáy huyệt
Làm sao không chua xót chuyện vuông tròn
Nay chỉ còn dư âm trong kỷ niệm
Mảnh linh hồn, vạn nẻo, nhớ nhung suông…

Vọng tượng đài
Nỗi buồn xuyên thế kỷ
Biếc trời xanh
Đỏ ửng mạch tim non

Đỏ làm chi?
Từ tim hay từ lửa?
Đốt hồn ai, thử thách kẻ can trường

Tháng tư đen
Đỏ bừng cơn uất hận
Hạt mưa đen
Dòng máu đỏ còn tuôn

Biếc trời xanh
Hay tím cả thời gian
Hỏi nhân loại:
Cớ sao mình vong quốc?

Đen trời xanh
Và đỏ cả không gian
Trách lịch sử:
Tạo nên đời mất nước…

Dương Như Nguyện
April 2014

Đại Vệ Chí Dị – Chuyển ngôi

In Liên Kết, Tạp văn, Văn Chương on 2014/03/14 at 23:19

Nước Vệ triều nhà Sản năm thứ 69.

Nạn đói kém không dứt, nạn đạo tặc cướp của giết người không giảm.

Mùa xuân năm ấy, nhà Sản nghị triều chuẩn bị nhân sự cho vương triều kế tục.

Chúa gọi con trai đầu đang giữ chức phó thượng thư vào phủ. Trưởng nam nhà Chúa tuổi 37 tuổi, tướng mạo béo tốt đẫy đà. Làm quan bấy lâu không có tiếng tốt cũng chẳng có tiếng xấu.

Chúa ra hiệu trưởng nam ngồi bênh cạnh, rồi bảo:

– Con phải về quê nhà mình, mai này cha dưỡng hưu cũng về đó. Đất ấy của nhà mình, các tỉnh xung quanh toàn là tâm phúc. Để con ngoài kinh thành khi cha không còn chức, e bọn miền Bắc chúng bách hại.

Trưởng nam hỏi:

– Thưa cha, ta không có người kế nhiệm cha đáng tin sao?

Chúa thở dài nói:

– Giờ ta có Đàm Cận, nhưng tuổi còn trẻ, chưa vào hàng đại thần nghị chính, không thế đưa lên được. Chuyện đó còn mươi năm nữa. Cũng tại ta khi xưa dùng tổng quản phủ là Xuân Thọ, người miền Trung. Không ngờ hắn thay lòng đổi dạ, nhân lúc Vương Phủ tấn công ta mà nhăm nhe soán đạt ngôi. Sau này ta về lành ít, dữ nhiều. Chúng ta trụ ở đất nhà, đợi thời cơ khởi nghiệp. Khi xưa Chúa Nguyễn cũng từ đó mà làm nên 200 trăm năm nhà Nguyễn. Cơ sự nhà mình mai sau trông cậy vào thằng út, cha để con lộ mình sớm vì tưởng thế của cha còn vững dài, đó cũng là cái thiệt thòi của con.

Trưởng nam thưa:

– Phận làm con, cha mẹ đặt đâu ngồi đấy. Xưa nay cha bảo sao con làm vậy, không hề có ý hối tiếc. Vả lại con thích chuyên môn hơn là làm quan, mệt nhọc lắm cha à. Gia sản nhà mình đâu cần phải kiếm thêm làm gì nữa.

Chúa nghiêm mặt nói:

– Con không muốn kiếm vì cha muốn con giữ tiếng tốt. Nhưng tiền bạc trong thiên hạ là nội lực. Mình không thu về, kẻ khác cũng thu về. Khi kẻ khác có nội lực, nếu không ưa mình thì mình gặp họa. Cha vì phòng xa nên mới phải tận tâm, tận lực nắm mọi nguồn thu trong thiên hạ. Bá tính, quan lại nước Vệ ngày nay chỉ có chữ tiền mới khiến họ theo. Không thể nào bỏ qua chuyện ấy được là vì thế.

Trưởng nam lo lắng:

– Khi cha về, ai là người cha sẽ chỉ định kế vị. Cha có quyền đó mà.

Chúa lắc đầu:

– Nhưng giờ cha chưa biết tìm ai, ngôi vương xưa nay người Bắc nắm, ngôi chúa dành cho người Nam. Trong hàng ngũ tâm phúc của cha chưa biết tìm ai. Có lẽ cha sẽ tiến cử một phụ nữ có dáng vóc xinh đẹp, lấy hình mẫu bên Xiêm để giữ ngôi chúa. Cô ta người Nam, cũng là đại thần nghị chính, lại từng kinh qua giữ chức vụ kinh tế, con nhà dòng dõi công thần. Từng ấy làm cớ thì khó ai bác được. Vẻ ngoài của cô ấy khi bang giao các nước cũng đem lại sức sống mới cho nước Vệ, ý ta muốn quyết vậy. Nhưng e bọn miền Trung bị bọn miền Bắc kích động, ta đang phải ngừa chuyện đó.

Trưởng nam hỏi:

– Vậy ai sẽ làm vương?

Chúa khoát tay nói:

– Chuyện này chưa rõ, còn tùy thuộc Vệ Kính Vương chọn ai. Nhưng dường như Kính Vương chọn Sáng Quyết đại thần nghị chính, tổng trấn kinh thành rồi. Con cứ nhận ấn tín, về cố hương ẩn mình, chờ đợi thế thời thêm lúc nữa.

Trưởng nam vâng lời, xin cáo từ. Về tư gia gọi gia nhân sắp xếp hành lý. Nhận ấn tín từ triều rồi về bản quán nhậm chức.

Nước Vệ vẫn không có thay đổi gì lớn. Người chết vì cái chết không đáng có vẫn chết. Bá tính nợ nần, túng thiếu vẫn nợ nần, túng thiếu. May chăng 20 năm sau thế tử út nhà Chúa trưởng thành, sự thay đổi có thể gọi là.

Nguồn: FB Người Buôn Gió

Tình yêu , Sự thật, và Việt Nam

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Việt Nam, Văn Chương on 2014/03/08 at 23:36

Điểm sách của Michael Potemra

National Review Online, 18/7/2013

Bản tiếng Anh: “Love, Truth, and Vietnam” by Michael Potema

Ai mà muốn những vết thương của Việt Nam bị toang mở lần nữa? Nhưng sự thống khổ của đất nước đó vẫn là những bài học cho tất cả chúng ta. Uwe Siemon-Netto là một phóng viên chiến tranh thời đó, và ông vừa xuất bản một cuốn hồi ký về nó, Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc nhiều đau thương. Như những hồi ký thực sự xuất sắc, chính những chi tiết nhỏ nhất trong sách đã làm bức tranh lớn trở nên linh động. Siemon-Netto đã chứng minh rằng Bắc Việt là khách hàng quân sự chủ yếu bên ngoài châu Âu của Đông Đức, quốc gia này đã cung cấp mìn gây chết người gọi là PPM-2. Nhiều lần chạy xe dọc quốc lộ 19 ở Việt Nam, ông thấy rằng hầu hết những người bị giết bởi mìn PPM-2 là phụ nữ và trẻ em, bởi vì người dân thường di chuyển bằng xe cộ sơ sài không có khả năng tự vệ so với xe quân sự chuyên chở lính tráng lẽ ra là mục tiêu chính của mìn.

Siemon-Netto không chỉ đơn thuần là một người quan sát từ xa về các tổn thất nhân mạng của thường dân trong cuộc chiến đó. Ông kể lại câu chuyện trong một lần đến bệnh xá của người Đức chữa trị cho thường dân ở Việt Nam, trong khi chiến trận đang diễn ra ở ngoài:

Một bác sĩ trẻ người Đức đang làm việc ráo riết để cứu mạng sống. Trên một bàn mổ dã chiến tôi thấy có một người phụ nữ nằm mê man với lòng ruột phòi ra ngoài một vết thương lớn ở bên trái bụng của cô.

“Bạn có phải là bác sĩ?” Ông BS hỏi.

“Không phải, tôi là phóng viên.”

“Không sao, tôi cần sự giúp đỡ ngay bây giờ. Không còn ai ở lại đây để giúp tôi một tay. Bọn Việt Cộng bắt cóc tất cả. Bạn đi rửa tay ở đằng đó rồi đeo găng tay phẫu thuật vào và hãy tự biến mình thành người hữu dụng.”

Để đặt các bộ phận lòng ruột của người phụ nữ trở lại vị trí cũ, [bác sĩ] đã phải cắt toang bụng cô. Sau đó, ông cần thêm một đôi tay nhét chúng vào bụng qua vết thương hở bên trái của cô. Việc đó thành phận sự của tôi . . . 

Một chủ đề khác mà Siemon-Netto biểu lộ thật mạnh mẽ và rõ ràng là việc chuyện con người ta khoác trên người mình quá dễ dàng một mai rùa kiên cố để phủi lưng (tay) với sự thật. Nhiều năm sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, Siemon-Netto đã về lại Đức:

Tôi tham dự cuộc họp buổi sáng của một tờ báo trí thức Đức nơi tôi làm việc dưới tư cách là một tư vấn biên tập. Công việc của tôi là giúp các biên tập viên và nhà xuất bản này hiện đại hóa tờ báo cổ hũ của họ trong hy vọng rằng nó sẽ đạt tầm cỡ hàng đầu của nước Đức thống nhất . . . .

Các cuộc thảo luận chuyển sang chủ đề cho các câu chuyện tiêu biểu từ Đông Đức cũ.

“Xin xem đây như một đề nghị”, tôi nói. “Sao ta không thử làm một báo cáo chuyên sâu về các nhà sản xuất Đông Đức làm mìn PPM-2, những tàn tích liên quan đến các nạn nhân mà tôi chứng kiến trên dọc cả Quốc Lộ 19 tại Việt Nam? Sao không thử tìm kiếm tài liệu lưu trữ của Đông Đức về bộ máy tuyên truyền cáo buộc Tây Đức đồng lõa trong chiến tranh Việt Nam, và có lẽ đã dẫn đến cái chết của một số bác sĩ và y tá của chúng ta tại Việt Nam?”

Ối trời, tôi đã đạp vào ổ kiến lửa bằng lời gợi ý này! …Dù đây không phải là một tờ báo cánh tả nhưng một số biên tập viên trẻ tự mãn đã trở mặt giận dữ làm tôi tự hỏi có quả thực là thể chế Cộng sản Đông Đức đã thực sự biến mất. Cái ý thức hệ của phong trào sinh viên năm 1968 tôn vinh Hồ Chí Minh đã bắt rễ quá nhiều trong thế hệ của sinh viên tốt nghiệp trường đại học Đức nên bất cứ đề cập nào đến những hành vi vô nhân đạo của Việt Cộng sẽ bị coi là một dị giáo.

Nó cũng không làm tôi ngạc nhiên khi các biên tập viên lớn tuổi, những người lẽ ra phải hiểu biết hơn, vẫn nghĩ là thiếu thận trọng nếu hỗ trợ cho tôi. Nhà thần học Lutheran Dietrich Bonhoeffer một lần từng than vãn là sao mà “lòng can đảm từ công dân quá khan hiếm” ở nước ông ta khi bị Đức quốc xã thống trị…Cái thiếu hụt này nhất định vẫn hiện còn kéo dài ở vài nơi chốn.

Tất nhiên đây không chỉ là một điều thuần tính cách của người Đức: Đây là một xu hướng phổ quát của con người luôn ghét vị thần mang hung tin, và khi sự giận dữ chống lại vị thần sứ giả đưa tin này dâng cao thì ngay cả những người lẽ ra phải hiểu biết hơn cũng làm lơ không bảo vệ sứ giả. Nó làm cho người ta nghĩ đi nghĩ lại trước khi lên tiếng, và ngay cả những ai thực sự dũng cảm cũng không có đủ can đảm để nói lên tất cả sự thật trong mọi thời điểm. Nhưng cuốn sách Siemon-Netto là một minh chứng cho việc phải luôn tiếp tục cố gắng là điều cần thiết.

Người dân Việt Nam đã bị phương Tây bỏ rơi trong những năm thập niên 1970, họ vẫn còn bị áp bức cho đến mãi bây giờ, nhưng chuyện của họ vẫn chưa đến hồi kết cuộc. Siemon-Netto kết luận: “Tôi biết rằng [người Việt Nam] sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa độc tài. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó rồi sẽ xẩy ra.”

Về vấn đề cuối vừa đề cập: Hy vọng là một điều có nhiều mãnh lực. Lúc tôi còn là một cậu bé bắt đầu quan tâm đến chính trị, hồi thời những năm 1970, vì tôi chủ yếu nghĩ rằng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản trong chiến tranh lạnh là một điểm quan trọng mang tính cách sinh tử. Nếu hàng triệu người Mỹ coi việc này thật nghiêm túc và thực sự gắng sức, tôi nghĩ, thế hệ của chúng tôi có thể đặt được nền móng cho vài thế hệ tương lai tạo được chiến thắng cuối cùng và sự thất bại tối hậu của đế chế Xô Viết.

Thế mà khi tôi chưa hết lứa tuổi 20 thì điều đó đã xảy ra.

Trước khi cuốn sách này xuất bản, tôi biết các tác phẩm của Siemon-Netto chỉ qua những văn bản về tôn giáo của ông viết cho UPI, và thông qua sự tham gia của ông ở các cuộc tranh luận trong nội bộ của Lutheran. (Ông là một nhà thần học Lutheran khả kính.) Dù cuốn sách này là một thành tựu quan trọng trong một lĩnh vực hoàn toàn khác, nó đã thấm nhuần các nguyên tắc nhân đạo và tôn giáo trong toàn thể các tác phẩm của ông. Cuốn sách này, như ông cho biết trong phụ đề của mình, là một công trình có gốc rễ từ tình yêu.

Michael Potemra

Hồi ký “Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc bị tổn thương”

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Việt Nam, Văn Chương on 2014/03/08 at 18:05

Điểm sách của Joseph Reitz

Books In Review II, 13/10/2013
Bản tiếng anh: “Đức: A Reporter’s Love For a Wounded People” by Uwe Siemon-Netto–Book Review by Joseph Reitz

Phiên bản hồi ký đầu tiên tiếng Anh (2013)

Phóng viên người Đức Uwe Siemon-Netto đưa chúng ta vào Hài kịch Phi Lý của Việt Nam trong suốt hồi ký mang tên “Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc bị tổn thương” (NXB CreateSpace, 278 trang, 25 đô-la, bản in giấy). Chúng ta cùng với anh chứng kiến những biến cố trong chiến tranh Việt Nam vào những năm 1965-69.

Luận cứ của tác giả–từ chương đầu “Tưởng niệm đến Uwe” đến trang cuối cùng của lời bạt phần kết—là cuộc chiến tranh ở Việt Nam không phải là một cuộc chiến giải phóng. Siemon-Netto không phải là người hâm mộ chuyên chú tâm đến số lượng xác người, nhưng số thương vong và số người di tản loạn lạc được liệt kê trong trang tưởng niệm của cuốn sách quả thật là kinh hoàng.

Việc theo dõi chuỗi sự kiện trong cuốn sách đôi khi gặp khó khăn, nhưng đâu có cuộc chiến tranh nào lại diễn ra trong chiều trật tự. Tác giả mô tả cảnh tra tấn, chết chóc, và mất mát chịu đựng của người dân Việt Nam. Những khoảnh khắc hài hước dù hiện hữu đều lồng trong một đám mây bao trùm bởi sợ hãi.

Tác giả là người sống sót sau các cuộc bỏ bom trong Thế chiến II ở Đức, và điều này có lẽ giúp giải thích tại sao tác giả ít khi đề cập đến những nỗi sợ hãi của chính mình khi ở dưới làn bom đạn. Ông có thừa những lần chết hụt để làm cho hồi ký Đức vô cùng kích thích như bất kỳ tiểu thuyết chiến tranh khác. Cách đối xử với một số đồng nghiệp của ông bị bắt bởi VC cho thấy cuộc chiến đó là một cuộc chiến của hận thù và tàn sát – không phải là một cuộc chiến tranh giải phóng.

Siemon-Netto định nghĩa “hài kịch của sự phi lý” như là sự đặt để hai hiện thực trái ngược cạnh kề nhau. Một trong những cặp hiện thực đối lập trái ngược là bài tường thuật của các phóng viên tại chiến trường và hiện tượng mà ông gọi là cách bóp méo biến dạng các sự kiện ấy khi tường thuật với người dân Hoa Kỳ. Một cặp hiện thực tương phản khác liên quan đến nhu cầu của một quyết tâm rất cần thiết cho một cuộc chiến tranh lâu dài đối nghịch với điều mong muốn của người Mỹ cho một chiến thắng nhanh chóng. Tác giả cho thấy là cả hai tình huống này đã dẫn đến chiến thắng của phe cộng sản.

Hài kịch phi lý này có một dàn diễn viên phong phú cho các nhân vật hơn hẳn bất kỳ sản phẩm nào từ phim trường Hollywood. Các đứa trẻ lấy trộm xe của tác giả để đổi lấy một căn nhà, những người phụ nữ cắt sửa quyết liệt cơ thể của họ để hấp dẫn đàn ông Tây phương có thể là bộ phim hài châm biếm trong một tác phẩm hư cấu. Thế nhưng cuộc chiến và những câu chuyện của tác giả thì không có gì gọi là hư cấu.

Một trong những đồng nghiệp của tác giả có thói quen đến các cuộc họp báo khi đã say mềm và hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn. Tại những cuộc họp báo của [Bộ Tư Lệnh Hỗ Trợ Quân Sự (MACV) thuộc] chính phủ Mỹ, mà các phóng viên thường gọi họ là “Bọn Ngu Xuẩn lúc Năm giờ”, hiếm khi thấy có điều gì quan trọng được công bố cả. Đã từng có một cuộc họp báo mà họ đã dành toàn bộ một tiếng đồng hồ nói chuyện về việc một chiến binh Mỹ đái vào bức tường của một ngôi chùa.

Uwe Siemon-Netto

Cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân năm 1968 có lẽ là buổi trình diễn lớn nhất trên hý trường hài kịch phi lý. Sự kiện này chứng minh một bước ngoặt quan trọng trong cuộc chiến. Phi lý nằm ở chỗ trong khi Bắc Việt và Việt Cộng rõ ràng bị thua trận trên chiến trường thì công chúng Mỹ lại chuyển hướng chống chiến tranh. Trong khi việc cuộc chiến kết thúc là không thể tránh khỏi nhưng máu vẫn tiếp tục đổ thêm gần năm năm sau đó.

Siemon-Netto mở lòng với chúng ta khi ông mô tả trận chiến giành lại thành phố Huế, trong đó hàng ngàn người đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã bị sát hại bởi quân miền Bắc Việt Nam một cách có hệ thống. Tác giả kể về các nấm mộ tập thể của người chết và đôi khi mộ của cả những người bị chôn sống.

Vợ của tác giả, cô Gillian, đã theo chồng đến sống ở Sài Gòn. Cô cũng trải qua chuyện sống dưới lằn đạn qua các trận chiến trên đường phố. Siemon-Netto mô tả các bạo động và nguy hiểm hàng ngày mà người dân Sài Gòn phải gánh chịu trong khi các chuyện này rất hiếm được tường thuật lại ở nước nhà [Hoa-kỳ].

Seimon-Netto hoàn thành mục tiêu của ông khi đưa chúng ta vào trọng tâm của một dân tộc bị thương tổn. Mặc dù ông đã phơi bày mảng đen trong trái tim của kẻ ác, ông cũng đưa chúng ta vào ánh sáng và sự kiên cường của những người tự hy sinh vì yêu đất nước và gia đình họ.

Độc giả của tác phẩm Đức sẽ gặt được nhiều thông tin về cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á, hoặc ít nhất sẽ được nhắc nhở về những điều lãng quên.

Uwe Seimon-Netto lập luận rằng tội ác chiến tranh gây ra bởi những người cộng sản là một phần trong sách lược của họ. Trong khi người Mỹ đôi lúc vi phạm tội ác chiến tranh nhưng tội ác của chúng ta không phải là một phần của chính sách chiến tranh. Điều này giúp tôi có một hy vọng cho tương lai của chúng ta.

Trang mạng của tác giả www.siemon-netto.org.

– Joseph Reitz

Khuất Đẩu – Thiến!

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn, Văn Chương on 2013/12/21 at 23:39

Khi tôi còn bé, những buổi trưa ở thôn quê thật buồn. Chỉ có nắng ngùn ngụt như bốc khói. Và gió, những cơn gió hừng hực đuổi lũ rơm rạ cuống quít chạy trốn trên đường làng. Cái tiếng gà trưa lúc này nghe ra đúng là thật não nùng. Mà cái tiếng của một ông thợ hoạn lại càng não nùng bi thiết hơn!

He…o thiến hôn?

Âm “he…o” kéo dài tưởng chừng lê lết bỗng đột ngột vút lên cái âm thiến sắc nhọn như lưỡi dao của ông. Lũ heo trong chuồng mà nghe và hiểu được như người chắc là sợ chết khiếp.

Thế rồi đâu đó có tiếng chủ nhà: Ông thiến ơi, vào đây!

Những con bị thiến là heo cái chừng hơn một tháng tuổi. Cô ả bị người thợ hoạn treo ngược lên, rạch một đường bên hông, đưa mấy ngón tay mò mẫm rồi lôi ra một chút thịt sống đẫm máu gọi là hoa sung. Sau đó là may với kim thiến heo thật to, không bôi thuốc đỏ mà bôi lọ nghẹ trộn với lá dâm bụt. Cô ả được thả vào chuồng, được chăm chút, chỉ ăn rồi ngủ, để rồi sáu tháng sau hoặc hơn, lại được treo ngược lên một lần nữa, lần này không phải ông thợ hoạn mà là anh đồ tể.

Cái tiếng ụt ịt nũng nịu thầm thì bấy lâu bỗng đổi thành cái tiếng ét chói tai như con tàu kéo hồi còi vĩnh biệt.

Gà, chỉ có gà trống mới thiến. Một khi hai hòn dái giấu kín trong bụng được lấy ra, anh không thèm gáy, không thèm đá lộn, đương nhiên không thèm túc túc cù rủ và nhường con trùn hay con dế cho các chị gà mái nữa, chỉ ăn toàn bắp ngâm nước cho mềm ra để tạo mỡ. Cuối tháng chạp, anh được nhốt trong một chiếc lồng hình con vịt, được các chàng trai khúm núm đem đi tết bố mẹ vợ sắp cưới. Để rồi sau đó anh nằm bảnh chọe trên một chiếc đĩa to kềnh mỡ vàng tươm ai thấy cũng thèm!

Chó bị thiến cũng là chó đực. Thiến để anh không đi tơ, để đêm ngày nằm gác mõm trên thềm nhà canh giữ sự an nguy cho chủ. Vì sợ hai hàm răng trắng nhởn có thể ngoạm vào bất cứ ai trong cơn hốt hoảng, nên người ta vuốt ve cho anh ngúc ngoắc đuôi ngoan ngoãn rồi bất ngờ úp một cái cối giã gạo lên đầu anh. Thế là hai hòn dái quý báu của anh cứ việc phơi ra cho người ta xẻo một nhát đi đứt. Khi được thả ra, anh chạy biến, trốn vào một bụi rậm, nằm liếm mãi cái vết thương cho đến khi khô máu mới dám thập thò trở về nhà. Anh được chủ yêu hơn, cưng chiều hơn, trở thành một thành viên tận tụy của gia đình, đến lúc già chết được đeo mấy đồng tiền vào cổ để đi đò qua sông Mịch La.

*

Với con người, ba tiếng “đau như hoạn” nhất định là thống thiết hơn cái tiếng ét hay tiếng ẳng. Đó là nỗi đau không được làm đàn ông, không được truyền giống, đau vì những người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ.

Còn hơn đau, đó là nỗi nhục.

Trong cổ kim, chỉ có một người biến nỗi nhục đó thành vinh, là Tư Mã Thiên. Bị kết tội chết vì bênh vực Lý Lăng, không có tiền chuộc mạng, ông đành nghiến răng chịu thiến. Không đẻ được con bằng xương bằng thịt, ông dành cả đời để đẻ ra đứa con tinh thần bất tử là bộ sử ký vĩ đại của nước Trung Hoa cổ đại.

Nhưng cũng có nhiều kẻ chịu đau chịu nhục chỉ để để trở thành hoạn quan.

Carter Stent miêu tả về việc cát thể (hoạn) ở Trung Hoa cuối đời Mãn Thanh như sau:

Trước khi cát thể, người có ý định trở thành thái giám được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp và được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì khi bị thiến hay không. Nếu người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người đó, hai người khác banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và hai đùi, và bệnh nhân được cho uống một thang thuốc mê (ma phế thang), bộ phận sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt. Cả dương vật lẫn dịch hoàn được cắt xoẹt bằng một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm ngay vào lỗ sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật chặt.

Người thái giám lập tức được những “đao tử tượng” dìu đi quanh phòng trong hai ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa đau đớn, vừa khát nước nhưng không được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau ba ngày, vải băng được cởi ra và cái nút được rút ra và nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công và qua được thời kỳ nguy hiểm. Nếu người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín và chỉ còn đường chờ chết.

Có gia đình chuẩn bị việc cho con mình tương lai sẽ làm thái giám tử khi còn nhỏ. Một bà vú (bảo mẫu) thuê để đặc biệt chăm sóc cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Bà vú này có một thủ thuật riêng, mỗi ngày ba lần nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ khiến đứa bé đau đến khóc thét lên. Lực bóp cũng tăng thêm và cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai vú nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành “ái nam, ái nữ”.

Kinh hoàng như thế nhưng nhiều người vẫn xâm mình chịu trận, đủ biết cái bả vinh hoa nó có một hấp lực còn mạnh hơn cái bản năng gốc đã được tạo hóa cài đặt từ trong bụng mẹ.

Từ khi có chế độ cộng sản thì cái nước Tàu mênh mông không còn tiếp diễn cái cảnh man rợ đó nữa. Nhưng để được đứng dưới ngọn cờ của Đảng, có biết bao người đã tự hoạn. Hai tiếng “đồng chí” hết sức trung thành đã thay cho hai tiếng “hoạn quan”. Họ không chỉ phục dịch mỗi hoàng đế Mao Trạch Đông mà cả trăm cả ngàn ông hoàng bà chúa bé hơn ở Trung Nam Hải.

Nước Nga đâu khác gì.

Bắc Triều Tiên cũng vậy.

Thì thôi, đành một nhẽ. Dẫu sao họ cũng tự thiến chứ không phải bị đè ra thiến.

Ở xứ ta, từ khi có người gọi đích danh tự do là cái con cặc, thì cả nước bỗng ngớ ra bởi vì, sao trông nó buồn thiu ỉu xìu đến như vậy. Hóa ra nó đã bị thiến tự bao giờ! Cho dù không bị treo ngược lên như heo hay úp một cái cối giã gạo lên đầu, nhưng hơn nửa thế kỷ nay, từ khi vào mẫu giáo, nó đã bị bóp cho nát bét ra cái tư tưởng tự do như hai cái dịch hoàn, thì còn đâu khí thế mà vùng lên được.

Cho nên dẫu có muốn ngồi nhìn hòn dái đâm đinh như nghệ sĩ Pyotr Pavlensky trình diễn Fixation bằng cách đóng đinh bìu dái mình trên Quảng trường Đỏ cũng không còn dái đâu mà đóng.

Ô hô, cả nước bị thiến! Đúng là đau như hoạn!

17/11/2013

© 2013 Khuất Đẩu & pro&contra

Nguồn: pro&contra

Tại sao Phạm Duy “dinh tê” về Hà Nội?

In Lịch Sử, Liên Kết, Văn Chương on 2013/02/02 at 09:53

Sau khi Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân bế mạc, mọi người ai nấy đã trở về những chiến khu của mình rồi thì “giây phút của sự thật” đã tới với tôi. Trong một buổi trưa có nắng vàng nhẩy múa trên lá cây, thả bước trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rừng Yên Giã, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi… Một hồi lâu, anh Khoát nói, giọng nói thầm thì: 
— Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đã được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điều kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày đi. Mày phải khai tử bài hát Bên Cầu Biên Giới. Và nếu xuất ngoại thì Thái Hằng phải ở lại. Một mình mày đi thôi. Về suy nghĩ. Mấy hôm nữa, trả lời tao. 
Tôi bàng hoàng. Như bị anh bốc-xơ — cỡ võ sĩ Mỹ đen Tyson hiện nay chẳng hạn — vừa “ục” vào đầu mình một cú đấm. Anh Khoát lảo đảo đi về phía trước, lảo đảo là vì anh đi đôi giầy bốt to quá, nặng quá. Tôi cũng lảo đảo như người vừa bị “nốc ao”, quay về ngôi nhà nứa của mình, nằm chắp tay lên bụng, suy nghĩ… 

… Khi bước chân lên miền Việt Bắc này, tôi không bao giờ chờ đợi có được những thứ gọi là “đại ân huệ” như thế này cả. Nhất là những ân huệ có điều kiện. Cứ nghĩ rằng mình lên đây để làm việc như một thường dân yêu nước và được tự do sáng tác hay được tự do đi công tác, giống như khi mình còn ở Liên Khu IV. Chỉ cần mình có thêm hai, ba người bạn mới để mình yêu mến như đã yêu mến Nguyễn Sơn, Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh… Chỉ cần có thế thôi. Ai ngờ bây giờ mình lại được đãi ngộ đến thế. Ai ngờ bây giờ mình lại được đẩy vào một guồng máy chặt chẽ để sống cuộc đời của một anh cán bộ chính trị gương mẫu. Trong khi bản tính mình là một con người rất phóng túng. Trong suốt đời tôi, kể từ khi còn bé cho tới nay, tôi sợ nhất là bị đẩy vào kỷ luật. Vào làm đảng viên của một cái Đảng mà kỷ luật chắc chắn phải là thứ kỷ luật sắt, cứ yên chí đi, chỉ cần sau “ba bẩy hai mươi mốt ngày” là tôi sẽ bị đá đít tống ra khỏi đảng liền. 

Hơn nữa, tôi ý thức hơn ai hết về giai cấp của mình. Nằm trong ngôi nhà nứa này, tôi tự nói thầm cho tôi nghe, bởi vì khi phải trả lời anh Khoát tôi sẽ không nói văn vẻ như thế này: 
— Anh Khoát ơi. Tôi là tiểu tư sản mà. Làm sao tôi có thể tiến thẳng “lên” giai cấp vô sản được? Dù tôi cũng xuất thân là một công nhân, đi khắp mọi nơi ở trong nước để làm các nghề lao động chân tay trước khi sống bằng nghề lao động trí óc (!). Nhưng anh ơi, đó là sau khi tôi đã bị ông anh bắt phải vào học nghề trong trường Kỹ Nghệ Thực Hành, rồi tôi bất mãn, phạm nhiều kỷ luật như đánh nhau, phá phách máy móc ở trường… cho nên tôi bị đuổi ra khỏi trường. Trong bản khai lý lịch cách đây không lâu, tôi đâu có khai tôi là công nhân? Tôi có thể là người có nhiều cảm tình với Cách Mạng nhưng không bao giờ tôi là người học thuộc lòng những bài học, những lý thuyết, những tôn chỉ của Cách mạng cả. Đã có lần tôi trả lời một thằng Cách Mạng nửa mùa, khi nó phê bình tôi là tôi là duy tâm, duy tiếc gì đó, nó nói như một con vẹt vậy. Tôi bèn chỉ tay vào mặt nó: “Ê mày, nghe đây. Tao không phải là ‘duy tâm’ và cũng chẳng bao giờ là ‘duy vật’ cả. Tao là… ‘duy cẩn’, Phạm Duy Cẩn. Hiểu không?”

Tại Thanh Hoá, tôi đã có lần khó chịu vì bị phê bình là tiêu cực qua những bài mà tôi vẫn cho là theo đúng chủ trương hiện thực của chính quyền đề ra như Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây, Bà Mẹ Gio Linh. Nhưng khi tôi thấy — qua anh Khoát — Trung Ương bắt tôi phải khai tử bài Bên Cầu Biên Giới, tôi nổi giận chứ không chỉ khó chịu như trước nữa. Tôi thấy họ đặt vấn đề quá nặng. Một bài hát, theo tôi, nếu nó có may mắn được hát lên trong một thời kỳ nào đó thì đời của nó cũng chẳng khác chi một đời hoa, sớm nở tối tàn, có gì đâu mà quan trọng hoá đến độ phải treo cổ nó lên hả? Tôi thấy Cách Mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng Cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự. Bây giờ lại tới chuyện lãnh đạo bắt tôi phải tự tay giết chết một bản nhạc tình tôi vẫn thường coi là tầm thường và còn vớ vẩn nữa là khác. Sự ngu đần trong việc quan trọng hoá một bản nhạc như thế này cũng vẫn còn thấy hiện ra mấy chục năm sau, khi ở Miền Nam có những người lên án bài thơ của một anh lính trong lực lượng Nhẩy Dù do tôi phổ nhạc — bài thơ nhan đề Trả Lời Một Câu Hỏi mà tôi đổi lại là Kỷ Vật Cho Em — cho rằng sự phổ biến của bài hát này đã làm cho quân nhân nản lòng, do đó miền Nam Quốc Gia thua miền Bắc Cộng Sản. Nói như vậy là chấp nhận rằng một bài hát có khả năng để đánh giặc giỏi hơn một đội quân có một triệu lính, với sự giúp đỡ của một nước Đồng Minh có bom nguyên tử à? 
Bây giờ tới việc thứ ba là bỏ Thái Hằng ở lại Việt Bắc để đi Moscou. Thái Hằng đã có mang được gần sáu tháng rồi. Đã có lần cả hai vợ chồng tôi đều bị sốt rét, cùng nằm rên khừ khừ trên cái giường nứa ở khu Yên Giã này. Nhưng cũng còn có người ốm này săn sóc cho người ốm kia. (Thái Hằng vừa nhắc lại chuyện tôi… ỉa đùn ở Yên Giã khi bệnh sốt rét đưa tới bệnh kiết lỵ). Cái bệnh sốt rét quái đản mãi hơn mười năm sau mới được đẩy lui khi một Bác Sĩ ở Saigon tìm ra cách chữa rất hiệu nghiệm là tiêm quinine vào mạch máu của chúng tôi. Ngay trước ngày Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân, khi tôi phải đi vắng hai tuần — tôi lên hát ở Đài Phát Thanh bí mật, có gặp lại Thương Huyền tại đó — Thái Hằng nằm một mình ở trong khu rừng già này, nửa đêm có cọp về, vợ tôi vốn là người bị bệnh yếu dây thần kinh từ trước, nay lại sợ cọp tới độ muốn phát điên lên, sáng hôm sau phải tới xin ở tạm nhà chị Nguyễn Xuân Khoát trong khi đợi tôi đi công tác trở về. 

Nếu tôi đi ngoại quốc mà Thái Hằng ở lại, vào ngày sinh nở, ai là người sẽ săn sóc người đẻ hộ tôi? Tôi cũng có thể tin rằng Đoàn Thể sẽ làm chuyện đó một cách rất chu đáo, nhưng tôi đã thấy trước mắt chuyện bà Đào Duy Kỳ, vợ của một đảng viên cỡ lớn, ở ngay tại khu Trung Ương này, khi sinh ra đứa con thì phải nuôi một con dê ở trong vườn để có sữa cho con bú. Hình ảnh của người mẹ nghèo thiếu ăn và của đứa con đói sữa trong bài thơ Tâm Sự Đêm Giao Thừa của Hoàng Cầm mà tôi thuộc lòng như cháo, cũng hiện ra trong đầu tôi lúc này… 

… Trong thời gian chờ đợi tới ngày tôi phải trả lời anh Khoát về một vấn đề tối ư quan trọng có khả năng quyết định cả một đời người, tôi được gọi đi gặp ông Hồ. Đi khoảng gần hai tiếng đồng hồ thì tới chỗ ông ở. Qua khỏi một con suối được đặt tên là Lê Nin thì thấy hiện ra một ngôi nhà sàn bằng tre rất đẹp, có ông Chủ Tịch họ Hồ đang ngồi đánh máy. Nhìn thấy ông, tôi vẫn thấy cảm động như lúc gặp ông lần đầu. Nhưng vì bây giờ được nhìn ông gần hơn lần trước, tôi thấy cặp mắt của ông thật là sáng, nhưng nó không toát ra một sự trìu mến. Cũng có thể một người làm chính trị suốt đời như ông thì lúc nào cũng cần phải cần phải quyết liệt, phải tàn nhẫn, cho nên ông có một cái nhìn rất dữ. 

Tới gặp ông lần này, tôi rất thông minh để thấy ngay rằng đối với ông, lúc đó, tôi chẳng là cái gì cả. Không chừng ông cũng chẳng biết tới tên tôi hay biết tới công việc của tôi là đàng khác. Trong cái bắt tay hay trong câu chuyện, tôi chỉ cảm thấy có một chút thân mật của một người muốn làm cha thiên hạ, ban xuống cho một đứa con dân. Chỉ có thế thôi. Một nhà lãnh đạo như ông Hồ, đang có muôn ngàn chuyện phải làm, đâu có thì giờ để mà đãi ngộ một văn nghệ sĩ? Chẳng qua là vì những vị phụ trách về văn nghệ nghĩ rằng gặp ông Hồ là một ân huệ lớn đối với một công dân và nghệ sĩ như tôi. Trong mọi tính toán như: cho vào Đảng, cho đi Moscou, đề nghị tặng huân chương, còn có thêm một tính toán nữa là cho tôi gặp một người mà ai cũng mong được gặp. 

Họ không biết là tôi đã từng được mời tới gặp ông Bảo Đại khi ông vua này đi săn và tới Phan Rang hồi năm 1943. Tôi đang đi hát với gánh Đức Huy ở đó, ông Tỉnh Trưởng là Nguyễn Duy Quang cho xe hơi tới đón tôi đưa vào Dinh Tỉnh Trưởng để đàn hát cho ông vua nghe. Lúc đó tôi mới 22 tuổi. Chỉ có tôi và Bảo Đại ngồi ở trong phòng khách. Ông chăm chú ngồi nghe tôi hát, hỏi thăm gia đình tôi. Gặp ông vua mà cũng chẳng thấy có gì là ghê gớm cả. Ông vua nghe mình hát thì cũng như… ông trọc phú hay ông phu xe — những quý vị khán giả bỏ tiền mua vé vào rạp — nghe mình hát mà thôi. Nhưng phải công nhận rằng ông Bảo Đại là một người rất nhã nhặn, rất thích âm nhạc. Tiếc rằng tôi không nhìn được rõ đôi mắt của ông vì ông luôn luôn đeo kính đen. 

Sau này cũng thế, vì anh tôi là Phạm Duy Khiêm đang làm Đại Sứ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tôi cũng được mời vào Dinh Độc Lập để gập hai anh em lãnh tụ họ Ngô. Cả hai ông đều có những cái nhìn rất dữ và cao ngạo. Đối với hai ông, tôi cũng chỉ có đúng một sự lễ phép vừa phải như khi tôi gặp những lãnh tụ khác. Một thứ lễ phép theo kiểu “kính như viễn chi” vốn là một cách rất hay để thoái thác không nhận một ân huệ hay một món nợ vật chất hay tinh thần nào ở nơi những người có quyền hành này. Sự tương kính đã có giữa hai bên rồi thì không bao giờ tôi dám phê phán các nhà lãnh tụ đó cả, từ ông Bảo Đại, qua ông Hồ Chí Minh tới hai vị lãnh đạo họ Ngô. Đó là công việc của lịch sử. 

Nhưng có một điều mà bây giờ tôi mới nhìn thấy khi tôi gặp ông Hồ Chí Minh ở Việt Bắc là: dù đây là một thứ chính quyền Cách Mạng nhưng ở cái nơi chiến khu âm u bí hiểm này cũng có một thứ triều đình rồi — chẳng trách Nguyễn Tuân gọi đây là đất thánh. Triều đình nào cũng phải có kẻ nịnh. Kẻ nịnh bao giờ cũng đông hơn người trung. Lúc tôi tới nơi ông Hồ ở là lúc tôi thấy Tống Ngọc Hạp đem một bầy thiếu nhi tới và tôi chứng kiến một sự “tranh nhau đi gặp Bác Hồ”, một sự cãi nhau om xòm giữa người này người nọ trong sự chọn lựa ai được vào gặp, ai không được vào gặp. Tôi trở về Yên Giã, lòng rất thản nhiên vì bây giờ thì tôi không còn gì để thắc mắc nữa. 

Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về Thanh Hoá. Và xin về ngay để cho kịp ngày vợ đẻ, sẽ có bà mẹ vợ săn sóc cho mẹ tròn con vuông. Tôi rất cám ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào cả. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn nghệ của cả nước thì Tố Hữu tặng cho vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó là tiền lương và vãng phí. 

Ngày mai lên đường về suôi thì tối hôm đó bỗng nhiên tôi gặp vợ chồng tướng Nguyễn Sơn ở nơi an toàn khu này. Ông mời vợ chồng tôi tới ăn cơm. Trong bữa cơm rất ngon tại một ngôi nhà sàn ở giữa vùng Việt Bắc, dưới ánh đèn dầu leo lắt, ngoài những chuyện xã giao thông thường, ông không nói gì tới chuyện ông đã bị Đảng gửi trả ông về Trung Cộng. Tôi cũng không hé miệng cho ông biết tình trạng và thái độ của tôi trước những ân huệ mà cấp trên đã dành cho tôi. Nhưng khi biết tôi sẽ trở về Khu IV vì lý do Thái Hằng đang có mang thì ông gật gù, ra chiều đồng ý. 

Khi tôi về tới Thanh Hoá, tôi mới biết rằng tướng Nguyễn Sơn đã bị thay thế bởi Hoàng Minh Thảo, có Trần Văn Quang làm ủy viên chính trị. Sau này, tôi mới biết rõ nguyên do tại sao ông Sơn lại bỏ kháng chiến để ra đi. Theo người bạn đàn anh của tôi là Hoàng Văn Chí — anh em cột chèo với Nguyễn Sơn — lúc đó đang làm việc tại Khu IV, thì tướng Nguyễn Sơn phản đối việc ông Hồ yêu cầu Trung Cộng viện trợ, cho rằng hễ nhận viện trợ của ngoại bang thì sẽ mất hết chủ quyền. Ông Sơn viện lẽ rằng trong thời kỳ chống Nhật, Mao Trạch Đông không thèm nhờ Nga Sô viện trợ, để mặc Nga Sô tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Theo ông Sơn thì Việt Nam phải tự lực kháng chiến, chiếm lấy vũ khí của Pháp để mà đánh Pháp. Cuộc chiến đấu gian lao hơn nhưng nước mình sẽ không phụ thuộc ngoại bang. Cũng vẫn theo Hoàng Văn Chí, Nguyễn Sơn to tiếng với ông Hồ về việc này và bỏ ra đi ngay sau buổi thảo luận gay go đó, rất có thể ngay trong cái ngày mà tôi được ông mời tới nhà để ăn cơm. Tôi cũng không ngờ rằng đó là bữa cơm từ biệt mà tướng Nguyễn Sơn dành cho một nghệ sĩ trẻ tuổi mà ông hết lòng nâng đỡ không những chỉ trong công tác mà còn trong cả đời tư, khi ông là người se duyên và chủ hôn cho vợ chồng chúng tôi. Không còn Nguyễn Sơn ở Khu IV nữa, rồi đây tôi sẽ thấy mình bơ vơ vô kể. 
Trên đường về, vợ chồng ghé qua một địa điểm ở trong tỉnh Thái Nguyên để gặp anh tôi là Phạm Duy Nhượng hiện đang là giáo viên của trường dạy các cán bộ cao cấp về văn hoá. Việt Minh có cái hay là trong kháng chiến, những người không có trình độ văn hoá cao hoặc có khi chỉ mới có bằng Tiểu Học mà thôi, sau khi đã chiến đấu ở ngoài mặt trận trong một thời gian thì dù có là Sư Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng hay Đại Đội Trưởng gì đi nữa thì cũng — a lê — mời các ông quan to súng dài này buông súng ra, bỏ chức vụ đi, lục tục về một ngôi trường được dựng lên ở một nơi giống như “u tì quốc” để học lại từ đầu. Nhà giáo Phạm Duy Nhượng là thầy dạy học văn hoá cho vô số các Tướng Lãnh Cộng Sản về hưu hiện nay ở ngoài Bắc. Sống ở “ù tì quốc” này vài ngày, tôi được nghe một câu chuyện có dính líu tới giới cầm bút, cầm đàn và cầm… dọc tẩu của chúng tôi: 
“… Sau khi tan Đại Hội, các văn nghệ sĩ như Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Canh Thân, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Nguyễn Văn Hiếu về tới thị xã đổ nát là Thái Nguyên thì gập Đinh Văn Tỉnh, người có biệt danh là Tỉnh “Chố” vì anh ta có đôi mắt cá vàng, lúc nào cũng như chố mắt ra để nhìn thiên hạ. Tỉnh “Chố” mách nước cho mọi người biết: 
— Ở một địa điểm gọi là Lăng Tạ, chỗ giáp giới Thái Nguyên-Bắc Giang ấy, các cậu có thể tới ăn hút thả giàn được đó. Tại đây có Lê Sỹ Cửu là đệ tử ruột của Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu. Anh ta sẽ tổ chức một đám cưới cho người em. Họ cũng đang cần “văn nghệ giúp vui”… 
Nghe thấy Tỉnh “Chố” mách nước như vậy, các văn nghệ sĩ nhà ta vội vàng kéo nhau tới Lăng Tạ. Đám cưới cực kỳ sang trọng được tổ chức tại ngôi nhà của Lê Sỹ Cửu, nằm trên một ngọn đồi. Ở hai bên đường, từ dưới chân đồi lên tới cổng nhà, để soi sáng cho đường đi là hàng ngàn ngọn nến bạch lạp. Cục Quân Nhu là cơ quan có nhân viên và phương tiện để ra vào Hà Nội hằng ngày, mua những đồ tiếp liệu như vải vóc thuốc men, các hàng thuộc loại “xa xỉ phẩm”… trong đó có thuốc lá thơm cho ông Hồ. Lê Sỹ Cửu luôn luôn cưỡi một chiếc xe đạp Sterling mà ghi đông là loại thép “dura” có pha chất “aluminium”. Xe đạp thời kháng chiến mà có được một cái đèn hiệu RADIUS để đi ban đêm là đã sang trọng lắm rồi. Xe đạp của Lê Sỹ Cửu có tới hai cái đèn, đèn nào cũng to như đèn pha xe hơi cơ. Hằng ngày Lê Sỹ Cửu là một người tiêu tiền như rác. Số tiền đổ vào đám cưới này chắc chắn là phải kinh khủng lắm. Người ta kể lại là về phần ăn thì sau khi nhà bếp làm thịt, những lông gà, lông vịt đổ xuống sông trôi lềnh bềnh đến mấy ngày mà vẫn chưa hết. Và cũng không thiếu một thứ rượu ngon nào trong bữa tiệc cưới này. Thuốc lá thơm như Philip Morris, Cotab, Camel, 3 con 5… đem ra mời khách hút, không phải từng điếu mà là từng bao. Ăn uống no say xong là có luôn dăm ba cái bàn đèn thuốc phiện để đãi khách. Lẽ tất nhiên Trần Dụ Châu là thượng khách đám cưới. 

Thực ra, cái đám cưới cực kỳ hoang phí được tổ chức trên xương máu của nhân dân này cũng chẳng có ai biết đến, ngoài những người tới dự đám cưới. Cũng chẳng có ai bận tâm đi báo cáo ai cả. Vả lại, Cục Trưởng Cục Quân Nhu đã là nhân viên cấp cao nhất ở đây rồi. Hơn nữa, Trần Dụ Châu là người rất hào hiệp đối với bạn bè và các đàn em. Có người bạn nào ở xa tới thăm anh là anh tặng luôn cho người đó một bộ đồ kaki Mỹ. Cho nên nếu anh có để cho đàn em của anh làm chuyện hoang phí như thế này thì cũng không có ai nỡ trách móc anh làm gì. Chẳng may trong đám cưới này lại có Đoàn Phú Tứ.

Trong bữa ăn, có lẽ đã quá say — hay giả vờ say không chừng — Đoàn Phú Tứ nhìn thẳng vào mặt Trần Dụ Châu, lên tiếng phê bình sự hoang phí này. Lê Sỹ Cửu vội vàng chạy tới, nắm cổ Đoàn Phú Tứ kéo đi. Và để lấy lòng “xếp” của mình, anh ta giơ tay tát Đoàn Phú Tứ. Thế là chuyện này bùng nổ. Đoàn Phú Tứ lập tức báo cáo lên Trung Ương, đưa ra những tội của Trần Dụ Châu như: bao che cho đàn em phung phí công quỹ, tổ chức đám cưới vô cùng phí phạm trong khi chính phủ đang bắt cả nước phải hi sinh, có thái độ hung hãn với văn nghệ sĩ khi bị phê bình thẳng thắn. Câu chuyện lan tràn đi khắp mọi nơi. Ai cũng xì xào. Nếu người tố cáo không phải là Đoàn Phú Tứ thì chuyện này cũng có thể được lấp liếm đi, nhưng lúc đó người ta rất cần tới văn nghệ sĩ để động viên quần chúng cho nên Trung Ương đã không thể làm ngơ được. Kết quả, Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu bị đưa ra xử án trước công chúng vào ngày mùng 5 tháng 9 năm 1950, có Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh Án và có Trần Tử Bình đại diện của Chủ Tịch họ Hồ tới dự để cho phiên toà thêm phần long trọng. Trần Dụ Châu bị kết án tử hình và bị đem ra xử bắn tại sân vận động Thái Nguyên…” 

Tôi biết sơ sơ là cô bạn ca sĩ Thương Huyền dễ thương và hát hay của tôi trong những ngày xa xưa, khi ra với kháng chiến thì cô trở thành người bạn tình hay người vợ chưa cưới của Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu. Tôi cũng vừa mới gặp nàng ở Đài Phát Thanh bí mật một tháng trước đây. Lúc đó nàng đang ngồi trong phòng vi âm, tay cầm cái quạt nan để đuổi một lũ ruồi đang bu vào một vài nốt ghẻ ở nơi đôi chân thon đẹp của nàng, những nốt ghẻ mà ai đã đi kháng chiến thì cũng đều được thiên nhiên ô nhiễm âu yếm tặng cho. Rất niềm nở, Thương Huyền hỏi thăm tôi về Thái Hằng. Còn về phần tôi, vì mắc bệnh “tế nhị” cho nên tôi không dám thăm hỏi gì về đời tư của nàng cả. Nay biết chuyện Cục Trưởng Trần Dụ Châu gặp nạn, tôi nghĩ tới Thương Huyền rất nhiều. Từ giã trường dạy văn hoá và anh Nhượng, chúng tôi ra đi. Trong hành trình trở về Khu IV, trên một quãng đường nào đó, tôi chúc thầm cho người bạn cũ có một nụ cười rất phúc hậu qua khỏi được tất cả những khó khăn của cuộc đời. Rồi từ đó, tôi quên Thương Huyền.

(Trích HỐI KÝ PHẠM DUY  chương 33)