vietsoul21

Archive for the ‘Việt Nam’ Category

Bất Bạo Động: Tròng Diễn Luận? (phần III)

In Cộng Đồng, Chính trị (Politics), Lịch Sử, Triết Học, Việt Nam on 2014/06/07 at 05:10

Phần III:

HẠN CHẾ CỦA DIỄN LUẬN BẤT BẠO ĐỘNG

HIỆU QUẢ NGẮN HẠN

CẢI CÁCH HAY CÁCH MẠNG

TẠM KẾT

_____________________________

PHẦN III

Hãy minh bạch trong ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng và những ý tưởng mà chúng ta nuôi dưỡng. Vì ngôn ngữ là gì nếu không là sự biểu hiện của tư tưởng? Hãy làm cho suy nghĩ của bạn chính xác và trung thực, và bạn sẽ thúc đẩy sự ra đời của tự trị (sawraj[i]) ngay khi mà cả thế giới đang chống lại bạn. ~ Mahatma Gandhi

HẠN CHẾ CỦA DIỄN LUẬN BẤT BẠO ĐỘNG

Việc sử dụng các phương pháp bất bạo động thì phụ thuộc vào một số yếu tố bao gồm (1) các truyền thống liên quan đến nhân dân và lịch sử (ví dụ truyền thống chống ngoại xâm của người Việt), (2) trình độ kiến thức và kinh nghiệm của các vị tiên phong và các nhà hoạt động về phương cách bất bạo động, (3) tình hình chính trị và xã hội , (4) mức độ đàn áp các vị tiên phong và các nhà hoạt động xã hội sẵn sàng chịu hy sinh đau khổ, (5) bản chất của các mục tiêu thuộc phe đối thủ , (6) các nguồn tài lực mà đối thủ dùng để xử lý, (7) mức độ tàn nhẫn của đối thủ , (8) số lượng người tham gia phong trào bất bạo động và mức độ hỗ trợ phong trào nhận được từ công chúng, (9) chất lượng của các nhà hoạt động và các vị lãnh đạo, và (10) tính chất của yêu sách và tình hình cụ thể mà trong đó hành động của yêu sách diễn ra.

Như đã phân tích trong phần I, sự từ chối bạo lực—đặc biệt là không thừa nhận hành động có chủ đích tự vệ—tự nó đã chấp nhận các logic đạo đức của chủ nghĩa phát xít, rằng kẻ yếu phải chấp nhận sự cai trị của kẻ mạnh hay kẻ tàn nhẫn nhất trong các phương pháp mà họ sử dụng để kiểm soát người dân.

Phong trào bất bạo động tại VN do đó có thể là chất xúc tác dẫn đến các “cải cách” chính trị NHƯNG KHÔNG giúp lật đổ một chế độ mục rữa trong tinh thần cách mạng dân tộc.

HIỆU QUẢ NGẮN HẠN

Khi cổ võ cho bất bạo động, ông Lý Thái Hùng, Tổng bí thư đảng Việt Tân, đã tuyên bố: “Cái giá phải trả để được các lợi điểm nêu trên là phải chấp nhận một cuộc đấu tranh lâu dài.” Sách lược lâu dài thì có lợi cho ai? Cho đảng phái nào? Cho nhà cầm quyền Việt Nam? Và cho ai/nhóm nào nữa? Chắc chắn không thể có lợi cho phó thường dân khi máu đã đổ thành sông và xương khô phủ khắp ruộng đồng.

Nhiều nhà hoạt động chống độc tài thuộc tầng hệ thống cơ chế đã từng than hỏi rằng: “Liệu công việc đối kháng nào sẽ có ý nghĩa và hiệu quả hơn: dùng thân thể nhiều người để phong tỏa một cây cầu trong một vài giờ hay cho cầu sập để kinh tế giao dịch qua cầu phải trì trệ trong vòng sáu tháng hay cả năm?”

Đây cũng là một trong những cách Việt Cộng đã từng sử dụng và công nhận là có ích lợi cho “công cuộc đấu tranh” cưỡng chiếm miền Nam VN của chúng. Trí thức CSVN sau 1975 cũng đã từng cổ võ cho sự bạo động của người tu hành dưới chiêu bài yêu nước. Lê Gia Hân thuộc Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã từng viết quả quyết như sau:

[T]hực tế lịch sử Việt Nam cho thấy, không phải mọi lúc, mọi nơi, tăng ni và Phật tử đều áp dụng phương thức bất bạo động trong các cuộc đấu tranh với quân xâm lược. Khi đất nước gặp họa xâm lăng, nhiều nhà sư đã “cởi cà sa, khoác chiến bào” trực tiếp cầm vũ khí đánh giặc bảo vệ Tổ quốc.

Vậy tại sao diễn luận “bạo động vì yêu nước” đó lại bị bác bỏ hay tước hữu hiện nay bởi nhiều thành phần? Như vậy thì có lợi cho ai, cho đảng phái nào?

Bất bạo động không nên được xem là một loại thuốc chữa bách bệnh. Một số xung đột chính trị tự nó có khả năng kháng cự các giải pháp ngắn hạn, dù giải pháp ngắn hạn là bạo động hay bất bạo động.

Lực lượng vũ trang có thể cần thiết trong một số trường hợp để bảo vệ người dân. Chẳng hạn như ở Đông Timor nơi mà Liên Hiệp Quốc đã cung cấp lực lượng vũ trang giúp cho người dân an toàn hơn trong khi chống lại cuộc tấn công của lực lượng dân quân mà chính quyền Nam Dương đã bảo trợ. Vai trò của bất bạo động trong các cuộc xung đột sắc tộc cũng vì thế cần được đánh giá một cách nghiêm túc hơn khi mà dân chúng biểu lộ thái độ ngoan cố và thách thức mạnh mẽ hơn đối với phương thức bất bạo động.

Vấn đề bất bạo động có thể trở thành một lựa chọn thay thế cho chức năng bạo động trong quá trình xã hội tiến hóa hiện tại vẫn còn gây nhiều tranh cãi.

Tương lai của bất bạo động nằm ở chỗ làm sao đưa ra các phương cách áp dụng cả hai lực—sức và thế—mang tính sáng tạo hơn là nhấn mạnh quá nhiều vào chất độ tinh khiết trong khi ứng dụng. Nếu không, các áp dụng hiện nay cho phong trào bất bạo động đã vô hình chung loại trừ hàng triệu người dân trong việc dự phần vào phong trào.

Quan trọng hơn hết là gánh nặng của việc xác định thế nào là một hành động bất bạo động trong một trường hợp cụ thể phải thuộc về những người trong cuộc thực hành phương thức đó chứ không phải là người bên ngoài.

Không ai có quyền đánh giá thế nào là đúng và thế nào là sai dựa trên một mô hình hay tiêu chuẩn điển hình phát triển trong một bối cảnh khác với bối cảnh của nơi mà các hành động diễn ra trong hiện thực.

Điều này không có nghĩa là một phong trào bất bạo động nên gạt bỏ khỏi nền tảng luân lý của nó. Nhưng khi mối quan tâm của phong trào lại (1) tập trung quá nhiều về nguyên tắc của hành động bất bạo động thì các hành động của đám đông ở hiện trường có thể vô hình chung bị xiềng xích, và (2) khi kỹ thuật bất bạo động được chú trọng quá mức thì nền tảng luân lý của bất bạo động có thể bị suy yếu và phá hủy. Một khi cố làm cho các đề nghị dựa trên các mục tiêu không mấy gì là cao quý mà lại mong có khả dĩ được thừa nhận thì đấy chính là lúc mà chúng ta cần nghĩ ngang nghĩ dọc thêm về một sách lược thỏa hiệp.

Đối thủ thường không (cần) phân biệt giữa một hành động bất bạo động và bạo động dựa trên cơ sở có chủ ý hay không. Trong khi đó đấy lại là bản chất của những ai hành động. Đối với nhà cầm quyền hành động bất bạo động của bất cứ loại nào, dù là loại nguyên tắc hoặc sách lược, thì đều là có vấn đề.

Ngoài ra, hành động bất bạo động là trọng tâm của người sử dụng chứ không phải là trọng tâm của cơ chế. Do đó nhiều hình thức áp bức không có chỗ cho việc hệ thống hóa mà cũng không được phân tích ngọn ngành trong quá trình cổ võ cho phong trào bất bạo động.

Đối với nhiều nhóm phó thường dân bị áp bức trấn lột thì bất bạo động không còn tạo được hấp dẫn một khi (1) có sự quá tin tưởng vào tính phổ quát của bất bạo động, (2) quá tin vào sự đồng thuận trong xã hội cho tính người của bất bạo động, và (3) khi phong trào bất bạo động thất bại vì không thừa nhận các hình thức đàn áp xảo quyệt của nhóm thống trị.

Chúng ta nên thừa nhận rằng chuyển đổi một cơ chế có thể dẫn đến biến đổi cá nhân thì hiện tượng ngược lại cũng có thể xảy ra, như Anthony Giddens từng nhắc nhở. Đối với các nhóm liên minh, các nhà hoạt động bất bạo động do đó không nên tự mãn về tính “giải phóng” của phong trào bất bạo động trong lúc thể hiện các mối quan tâm quá mức của mình cho tính thuần khiết và độc lập của phong trào.

Khi bất bạo động chỉ được sử dụng như một phương tiện để kết thúc cuộc đấu tranh, bất bạo động sẽ thành vô ích ngay cả khi đạt chiến thắng hời hợt giả tạo bởi vì cuộc tìm kiếm chân lý cho sự tồn tại của con người đã không phải là mục tiêu cuối cùng của phong trào.

CẢI CÁCH HAY CÁCH MẠNG?

Nếu chỉ có hiệu quả ngắn hạn, câu hỏi kế tiếp và nhất thiết là phải biết chúng ta xuống đường “ôn hòa” là để làm gì? Cho cải cách hay cách mạng? Cải cách theo kiểu bình cũ rượu mới hay là cách mạng đập bỏ chai rượu?

Như đã đề cập ở phần trên, phong trào bất bạo động trên thế giới đa phần tập trung hoàn toàn vào chiến thuật ngắn hạn và chưa thấy bất kỳ các chiến thuật này có thể nào đạt được mục tiêu dài hạn cho phong trào. Mục tiêu dài hạn phải là đấu tranh cho một nền hòa bình mang tính tích cực.

Một học giả người Na Uy, ông Johan Galtung, đã mở rộng khái niệm về bạo lực (vượt lên trên tình huống của bạo lực cơ bắp công khai và trực diện, và vượt lên trên thể lý, cá nhân, chủ đích) bao gồm các hình thức ngấm ngầm như bóc lột, kỳ thị màu da hay chủng tộc, khử trừ loại bỏ, bất bình đẳng và bất công trong xã hội. Các hình thức ngấm ngầm này dù không cần phương tiện bạo lực trực diện vẫn có những tác hại cả về mặt thể xác và tinh thần trong đó có tâm lý.

Matrix_Violence

Bạo lực cơ chế không thể xuất hiện như thần như thánh trong văn hóa mà dựa trên các tập tục tìm thấy trong nền văn hóa đó. Nói cách khác, bạo lực cơ chế là một quá trình mà nhờ đó bạo lực văn hóa được thể chế hoá. Galtung đã đề xướng ý tưởng về bạo lực cơ chế trong lúc làm nổi bật vai trò của văn hóa bạo lực như là một phần của ma trận của một xã hội bạo lực—một ma trận thường được sử dụng vừa để biện minh và vừa hợp pháp hóa cả bạo lực cơ chế và bạo lực văn hóa. Các hình thức tập quán của bạo lực văn hóa có thể được tìm thấy trong các khía cạnh của văn hóa như tôn giáo, ý thức hệ, ngôn ngữ và nghệ thuật. Khi nói về ảnh hưởng tai hại của bạo lực văn hóa ông Galtung cho rằng:

Bạo lực văn hóa giúp cho bạo động trực diện (lên thể xác) và bạo lực cơ chế ở chỗ khi người ta nhìn thấy, và thậm chí cảm thấylà điều phải hoặc ít nhất là không sai [ii].

Nói một cách đơn giản, bạo lực văn hóa hợp thức hóa bạo lực cơ chế. Để giải thích rõ hơn các động tác của bạo lực, ông Galtung phân tách sự khác biệt và tính tương quan của bạo lực trực diện, cơ chế, và văn hóa như sau:

Bạo lực trực diện là một sự kiện; bạo lực cơ chế là một quá trình với những thăng trầm lên xuống; bạo lực văn hóa là một bất biến , một “vĩnh cửu. Ba hình thức bạo lực nhập cuộc ở các khoảng thời gian khác nhau, phần nào tương tự như sự khác biệt trong lý thuyết động đất—sự khác nhau giữa các trận động đất như một sự kiện, sự chuyển động của các mảng thạch quyển là một quá trình, và các đường nức đứt như một tình trạng lâu dài hơn.[iii]

Như vậy câu hỏi cần cân nhắc ở đây phải là: Tại sao khi sử dụng phương cách bạo động trực tiếp thì bị chống đối hơn là các phương cách của bạo lực mang tính cơ chế và văn hóa–dù nằm ở dạng sóng ngầm nhưng tác hại thì lan tràn vào mọi mạch máu của xã hội trong nhiều bối cảnh và qua nhiều thế hệ?

Blogger Lâm Mạnh Di đã than thở về cái chết bằng những cảm nhận sắc bén của mình khi thấy có quá nhiều người tập trung vào những hình ảnh trưng bày những cái chết dã man do nhà cầm quyền Trung Cộng tạo ra vì đã tàn sát tập thể các sinh viên tại Thiên An Môn ngày 4/6/1989:

Một cái chết mau chóng dù sao cũng “hạnh phúc” hơn cái chết dần chết mòn, cái chết trong sự bị sỉ nhục, bị đầy đọa về tâm hồn lẫn thể xác như hàng trăm ngàn dân miền Bắc trong CCRĐ, hay biết bao nhiêu sỹ quan quân đội VNCH trong ngục tù được mang danh là trại cải tạo … Đó mới là những cái chết thê thảm và đau đớn. Polpot có thua gì, hay tìm đọc Gulag để thấy sự dã man của Stalin đối với dân tộc Nga.

Những tội ác khủng khiếp nhất, những kiểu giết người kinh dị nhất đều mang cái tên CNCS!

Chỉ với vài câu diễn tả khéo léo trong mỉa mai (bằng cách nhái cách gài khung của “đầy tớ” CSVN gọi dân oan là “ông bà chủ”), blogger Đặng Bích Phượng cũng đã lột tả được cơn sóng ngầm của bạo lực cơ chế và văn hóa đang âm thầm hủy hoại đất nước Việt Nam, nhất là những ai đang sống mà như đã chết:

“Trong cái nóng hầm hập, các ông bà chủ ngồi bệt ở ngoài cổng, bên trong cổng, cơ ngơi của các đầy tớ thật khang trang. Mọi cánh cửa đều đóng im ỉm, mát lạnh điều hòa.

Hôm nay, mồng 4/6, khắp mọi nơi người ta tưởng nhớ đến các nạn nhân của Thiên An Môn. Vậy có ai nhớ đến các nạn nhân còn đang sống đây không? Hơn 1000 dân oan Dương Nội, Văn Giang, Hải Phòng cùng đến mặt trận tổ quốc để gửi đơn kêu oan.

Vì thế, ông Johan Galtung phê bình phương pháp bất bạo động thực tiễn của ông Gene Sharp là loại “bất bạo động tiêu cực”, tức là không thực sự can thiệp và thách thức các “bạo lực của cơ chế”—một loại trấn áp trấn lột đã bện dệt trở thành bản chất của một xã hội và tạo vững chãi cho một nền văn hóa bạo lực. Ông đề xướng phương thức “bất bạo động tích cực” để chống lại các bạo động mà cơ chế tạo ra và được củng cố bằng một nền văn hóa bạo lực[iv].

Chất vấn về nguyên nhân của những cái chết dần mòn và trong sỉ nhục như thế lại dẫn đến một câu hỏi liên quan: vậy thì mục đích của phong trào đối kháng/phản kháng lại một thể chế độc ác vô nhân đạo phải là gì?

Protest Message

Khẩu hiệu xuống đường hay tại gia “VÌ MỘT QUỐC GIA CƯỜNG THỊNH, PHẢI THAY ĐỔI!” đã nói lên được ước muốn chung của người dân (khi đã nhận ra vô số sai lầm và khiếm khuyết của cơ chế “đồi trụy”). Nhưng nếu không có một mục tiêu nhất định thì thay đổi (cải cách) này cũng có thể bị tước hữu bỡi quyền lực đương thời để tiếp tục thống trị bằng cách hoán vị thay ngôi cá mè một lứa.

Mục tiêu chính là gì khi muốn “thay đổi”? Thay đổi cái gì và trong viễn quan của cải cách hay cách mạng triệt để? Thay đổi liên quan với đổi mới như thế nào?

Hãy nhìn vài thí dụ của diễn luận “đổi mới” của CSVN. Mục tiêu của chính sách “Đổi Mới” của ĐCSVN [vào hai thời kỳ: hoàn toàn thất bại về sản xuất nông nghiệp tại miền Bắc vào năm 1967 và lại tái diễn nhưng không thành công trong thập niên 1980s cho công nghiệp] như một ví dụ. Đổi mới về cái gì? Phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì có lợi cho ai? Đổi mới thật sự cho ai? Hay là “Đổi mới nhưng không đổi màu” và “Hòa hợp nhưng không Hòa tan” (lời Đỗ Mười tại khóa đảng CSVN lần thứ VII vào năm 1991)?

Chọn “thay đổi chậm và mang tính ổn định” (lời của Nguyễn Cảnh Bình, Giám Đốc nhà xuất bản Alpha Books, người được cho là “một nhà cải cách thực dụng và thẳng thắn” ủng hộ những gì ông gọi là “trung đạo” cho Việt Nam) hay muốn có “Mùa Xuân Việt Nam” thay đổi hoàn toàn một cơ chế?

Chúng ta xuống đường “ôn hòa” và “kềm chế” là để làm gì? Cho cải cách (bình cũ rượu mới) hay cách mạng triệt để (đập bỏ chai rượu)?

Tác giả Trần Ngân (trong bài “Vài Đánh Giá Ban Đầu Về Cuộc Xung Đột Hiện Nay Giữa Việt Nam Và Trung Quốc”) mới đây đã nói gì để mạng Bauxite Việt Nam cho là một tiếng nói “khách quan soi tỏ tình hình ở Việt Nam” và là một tiếng nói “trung ngôn nghịch nhĩ”:

Đa số những người có hiểu biết thật sự đều hiểu rằng chỉ có cách tách ra khỏi “quỹ đạo Trung Quốc”, dân chủ hóa đời sống chính trị, tự do hóa nền kinh tế để làm đất nước mạnh lên, hội nhập hơn nữa vào các chuẩn mực chung của văn minh nhân loại để tìm thêm những người bạn mới trên thế giới thì mới là cách tốt nhất để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên, điều này lại vấp phải một trở lực quá lớn là ý thức hệ của đảng cầm quyền.

Thế thì “ý thức hệ của đảng cầm quyền” (theo chủ nghĩa cộng sản) có thể thay đổi bằng “cải cách”?

Trong bài phát biểu vào ngày 30/5/2014 tại Toronto nhân dịp buổi gây quỹ cho tổ chức “Tribute to Liberty” để dựng một đài tưởng niệm vĩnh viễn tại Ottawa, thủ đô Canada, để tưởng nhớ “hàng trăm triệu” linh hồn nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, ông thủ tướng Stephen Harper thuộc đảng Bảo Thủ của Canada đã nhấn mạnh rằng ý thức hệ này “gây nhiễm độc khắp nơi trên thế giới, trên hầu hết các châu lục” với ngút ngàn tội ác qua áp bức và giết người. Ông nói,

[D]ù ở bất cứ hình dạng, nhãn hiệu nào – chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Mác-Lênin, hay chủ nghĩa khủng bố ngày naytất cả đều có một điểm chung: sự hủy diệt, chấm dứt tự do của con người.

Ông Harper cảnh cáo rằng, “Tội ác xuất hiện dưới nhiều hình thức và chúng có thể tái sinh.” Không ai có thể phủ nhận là ý thức hệ của đảng Cộng Sản là một nền văn hóa bạo lực vì đã tước hữu tất cả đặc trưng văn hóa của quốc gia, tước hữu tất cả thông điệp/yêu sách về dân chủ tự do và quyền con người, và sau đó tất cả bị xoa bóp nhào nặn để định hướng lại cho phù hợp với đường lối chính sách của chính quyền.

Chủ đích tước hữu tất cả các thứ đó không phải chỉ hoạt động ở tầng tạo dựng ý nghĩa từ những giá trị nhập nhằng và xây dựng quyền lực không phân minh. Chủ đích tước hữu tất cả các thứ đó còn hoạt động cả trong tầng lớp hưởng thụ ăn bám như ký sinh trùng (sát cánh) giúp vận hành cỗ máy đó.

Có rất nhiều móc xích trong chuỗi ký sinh, loại trực tiếp và loại gián tiếp. Có ký sinh trực tiếp “còn đảng, còn mình”. Có ký sinh gián tiếp thoáng ra không ai nhìn thấy vì nó nằm xa mãi ở tận cuối chuỗi móc xích. Ký sinh trực tiếp thì biết (bám) chủ còn ký sinh gián tiếp nằm ở cuối chuỗi móc xích thì lờ mờ (lửng lơ) với chủ gốc.

Điểm đặc biệt ở đây khác với định luật sinh tồn trong quan điểm sự tồn tại thuộc về loại mạnh nhất (survival of the fittest) ở chỗ ký sinh rất dị ứng với việc chủ bị triệt tiêu. Vấn đề này rất hệ trọng vì làm rối loạn mối liên hệ của chủ-ký sinh (host-parasite relationship). Nguyên do bởi lẽ ký sinh và chủ có cùng một chu trình tiến hóa tương tác (co-evolution). Chủ có sống thì ký sinh mới tồn tại. (VietSoul:21)

Ngay cả khi chủ không còn sống thì ký sinh vẫn có thể tồn tại khi tìm cách “trao thân gởi phận” vào chủ mới—loại chủ thật ra chỉ biến thái trên bề mặt.

Cổ võ cho “cải cách” ý thức hệ với nhiều loại ký sinh trùng “trao thân gởi phận” như thế thật là chuyện không tưởng!!!

Một khi phương thức bất bạo động tập trung hoàn toàn vào chiến thuật ngắn hạn (và chưa thấy bất kỳ các chiến thuật này có thể nào đạt được mục tiêu dài hạn cho phong trào) thì làm sao có thể “thay đổi” ý thức hệ? Còn nếu chọn cách mạng xóa bỏ hoàn toàn một ý thức hệ—hiện thân của bạo lực—thì sao?

Cách mạng hầu (1) xóa bỏ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa vừa vô nhân vừa độc tài, (2) rũ bỏ dứt áo với văn hóa bạo lực, và (3) chôn vùi cơ chế bạo quyền CSVN đã sinh sản những bạo lực đòi hỏi một mục tiêu dài hạn. Trong khi đó việc ứng dụng phương cách “bất bạo động” thì không có chỗ để bàn đến ý thức hệ—một lãnh vực hệ trọng nhưng vô hình và bàng bạc khắp mọi ngõ ngách của đời sống xã hội và văn hóa—nên không thể chỉ mang tính thực tiễn thực dụng và chỉ nằm trong phạm trù duy lý.

Cách mạng ở đây không hàm ý là cuộc cách mạng “long trời lở đất” máu đổ đầu rơi mà là cuộc cách mạng vượt qua nỗi sợ, hoàn toàn xóa bỏ ý thức hệ độc tài và cơ chế bạo quyền bằng phản kháng toàn diện. Cuộc cách mạng này có sự tham gia của toàn thể người dân thuộc mọi thành phần xã hội dùng đủ các phương tiện, phương thức đứng lên đòi quyền làm người, quyền công dân tự do. Trí thức thì tách rời (bỏ đảng, bỏ hội đoàn) khỏi cơ chế áp bức đứng vững trong vị trí độc lập đối trọng với tuyên huấn trong việc chấn dân khí, hậu dân sinh. Công nhân thì kết đoàn đình công, thương gia thì bãi thị, sinh viên thì bãi khóa bãi trường, nông dân thì tử thủ giữ đất giữ làng.

Hành động của nhà thơ Hữu Loan và những ai tương tự là hành động phi thường của những cá nhân đơn độc trong một nền văn hóa và giữa một cơ chế bạo lực tạo ngu dốt và vô cảm. Hủy bỏ cơ chế và văn hóa bạo lực thì là chuyện tất phải làm và chẳng có gì là phi thường—nhất là khi mọi người đồng lòng từ chối rót dầu bôi trơn cho cỗ máy vận hành, khi mọi người luôn tìm cách gây trở ngại phá hủy cỗ máy thì nó sẽ ngưng hoạt động.

Ai quên rằng: Một viên đá cuội ở chiếc ná trong tay của David nhắm vào thái dương đã đánh gục gã khổng lồ Goliath. Một cây kim hoặc một cái tăm nhọn chọc thẳng vào tròng mắt của beo hùm cũng làm chúng đui mù rống chạy. Một chai nước lã trộn vào bình xăng, bình dầu cũng làm máy ì ạch và tắt ngủm. Một viên sỏi nhỏ bỏ vào tâm trục quay của máy móc dù tinh vi đến mấy cũng làm nó gãy càng ngừng chạy.

Con đường còn lại cho người bị áp bức là phản kháng và đối kháng bằng mọi phương tiện và mọi phương thức ở mọi nơi mọi lúc. Không chấp nhận văn hóa “xin—cho”, làm ký sinh trùng bôi trơn cho cỗ máy đang nghiền nát tự do, hạnh phúc, “đem bục công an đặt giữa trái tim người”[v].

Ex-prisoners_Message

Từ trái qua phải, hàng trên: Luật sư Nguyễn Văn Đài (Hà Nội), Anh Nguyễn Văn Túc (Thái Bình), Thạc Sĩ Nguyễn Tiến Trung (Sàigòn), Linh mục Phan Văn Lợi (Huế), Chị Phạm Thanh Nghiên (Hải Phòng), Giảng viên Phạm Minh Hoàng (Sàigòn)

Hàng dưới : Kỹ sư Phạm Văn Trội (Hà Nội), Sinh Viên Nguyễn Phương Uyên (Bình Thuận), Luật Sư Lê Công Định (Sàigòn)

Bất bạo động sẽ là vô nghĩa trừ khi nó đi đến tận gốc rễ căn bản của một vấn đề để thúc đẩy hòa bình tích cực.

Có nên chăng rút ra bài học cả thành công và thất bại của các phong trào bất bạo động lật đổ chế độ độc tài?

Ấn Độ sau khi ông Gandhi bị giết cho đến ngày nay vẫn chưa xóa bỏ được các cuộc cách mạng chống lại kỳ thị chủng tộc và kỳ thị giai cấp, chủ nghĩa thực dân, và bạo lực mà ông Gandhi đã tiên phong cổ võ.

Sự từ nhiệm của các nhà độc tài tại El Salvador và Guatemala sau một phong trào bất bạo động làm các khu đô thị tê liệt vào năm 1944 đã không chấm dứt được nghèo nàn sâu rộng và giảm được lượng tập trung quyền lực và ảnh hưởng chính trị trong xã hội nằm trong tay một số nhỏ giàu có.

Nga và một số quốc gia tự trị trong và ngoài Liên Xô thì như thế nào? Những phong trào độc lập và cải cách đã đem lại gì cho các xã hội Đông Âu này? Cải cách chuyển đổi từ chuyên chế CS độc tài toàn trị sang một xã hội với bầu cử phổ thông kinh tế thị trường nhưng truyền thông và báo chí cũng như các tập đoàn tài chính/kỹ nghệ được cổ phần hóa và vẫn nằm trong tay kiểm soát của tàn dư phe đảng nên vẫn không bảo đảm vấn đề công bằng công lý trong kinh tế và xã hội mà cũng chẳng chấm dứt chủ nghĩa quân phiệt.

Miến Điện cũng thế. Nếu quân đội tiếp tục kiểm soát nhiệm kỳ tổng thống và không giao quyền lực cho các nhà lãnh đạo dân sự thì tính hợp pháp và sự ổn định của quá trình chuyển đổi chính trị không thể nào hoàn chỉnh. Cho dù bà Aung San Sui Kyi được nhiều ủng hộ đồng tình trong và ngoài nước, sức lực cán cân của Liên Minh Quốc Gia vì Dân Chủ quá mỏng nên không thể làm suy yếu chế độ độc tài.

Đó là vì chế độ Miến Điện có các sách lược nhằm ngăn chặn các luồng thông tin đến tới công chúng cũng như bên ngoài. Đây là cách chế độ (bình cũ rượu mới) miễn nhiễm với dư luận toàn cầu. Hơn nữa, kỹ nghệ hiện đại sử dụng để kiểm soát đám đông thường ngăn chặn sự hiểu biết của người dân về bản chất của tội ác mà chế độ cầm quyền đã thi hành. Công cụ kiểm soát mới mà cảnh sát sử dụng giờ đã uyển chuyển nhưng không hẵn kém hiệu quả so với cách cưỡng chế gây chết người để chống lại các hành động bất bạo động. Chế độ bình cũ rượu mới này thiết kế một chương trình hành động để bọc kẹo các tác dụng của đàn áp khiến truyền thông không thể nào tường thuật được chính xác về toàn bộ tình hình trong đó có các giai tầng của cưỡng chế ép buộc. Tóm lại, Miến Điện cho dù chấm dứt thể chế “xã hội chủ nghĩa” vào năm 1988 (sau cuộc Nổi dậy 8888 như là một “Diễn biến hoà bình”) nhưng cho đến nay vẫn có rất nhiều vấn đề hiến pháp khác cần được giải quyết vì vẫn bị ám bởi bóng ma cộng sản độc tài và sự ủng hộ từ các cường quốc trong vùng, đặc biệt là Trung Cộng.

Ai Cập sau ba tuần của một “làn sóng cách mạng hoa lài” vào cuối năm 2010 thì sao? Nên nhớ, đây không phải là một phong trào chỉ có bất bạo động để thay đổi một chế độ độc tài mặc dù các mạng truyền thông không tập trung vào các cảnh bạo động. Làn sóng cách mạng thành công này vừa có bạo động vừa có bất bạo động với nhiều náo loạn tầm quốc gia nhưng vẫn không thiêu hủy cơ chế độc tài, không đồng nghĩa với một bảo đảm thật sự cho các chính sách dân chủ chung hòa (democratic inclusion), công bằng xã hội, bình đẳng trong cơ hội, và bảo vệ quyền con người. Khi điểm chỉ nguyên nhân thất bại (qua cuộc phỏng vấn với đài Á Châu Tự Do) là do “chưa kịp phát triển đủ nền tảng xã hội dân sự”[vi] thì quả là phiến diện thiếu chiều sâu vì đơn giản hóa một bức tranh phức tạp. Phân tích như thế là đổ một trách nhiệm quá lớn cho khối xã hội dân sự trong khi ý thức hệ mang hiện thân bạo lực của xã hội Ai Cập (và chúng ta có thể thấy hiện tượng tương tự như dưới chế độ CSVN) thật ra là nguyên căn đã đem lại một hậu quả sâu rộng tiêu cực và phá hủy tâm và tầm của con người trong xã hội đó.

Thế thì bài học lịch sử là gì?

Chuyện lật đổ nhóm cầm quyền độc tài chuyên sử dụng bạo lực tuyệt đối hóa không thể chỉ là vấn đề cải cách và dẫn tới nền hòa bình tiêu cực thiếu công lý và không có sự hài hòa giữa cá nhân và xã hội—như dưới chế độ CSVN khi mà chính trị vẫn là thủ thuật giật bánh, đòi bánh, chia chác bánh, nhưng chỉ vẽ bánh mà không để dân lấy bánh.

Thứ hai, việc dọn đường chuẩn bị xóa bỏ các ảnh hưởng sóng ngầm tiêu cực của tròng nô lệ trong tư tưởng, tâm lý, và hành động xóa bỏ tất cả các bạo lực từ thể xác, tinh thần đến cơ chế và văn hóa. Đó mới chính là mục tiêu quan trọng nhất.

Ngoài ra, việc thách thức một số giả định rằng “phương cách nào—dù là bạo động hay bất bạo động—thì có hiệu quả hơn” phải được đưa ra qua các ví dụ đơn giản, chẳng hạn như khi nào bạo động hay bất bạo động sẽ tạo phản tác dụng đối với bạo quyền hoặc người biểu tình. Sau đây là một số đề nghị thiết thực:

  • Vạch trần các “tiêu chuẩn kép” (double standards) trong các cuộc thảo luận của bạo động/bạo lực và bất bạo động, ví dụ bằng cách chỉ ra thế nào là hữu hiệu và về những thất bại của các phong trào bạo động cũng như bất bạo động.
  • Làm cho mọi người biết đến trong khi không có chủ ý áp đặt các nghiên cứu thiên vị cho một trong hai phong trào.
  • Hiểu và hành với cả hai truyền thống nguyên tắc và thực tiễn trong bạo động và bất bạo động, và sự tương tác giữa nguyên tắc và hiệu quả.
  • Chứng minh được vấn đề đấu tranh bất bạo động “không liên quan gì tới thụ động, quy phục hay hèn nhát.”
  • Vạch rõ thế nào là bất bạo động thực tiễn, sách lược, hay nằm trong nguyên tắc thiên triết học.
  • Không tìm cách áp đặt và tự mãn khi cho phương cách này hay phương cách của mình là đúng để tránh các dấu hiệu bạo lực về mặt tâm lý.

Tất cả các cuộc cách mạng đều có thỏa hiệp, và mang tính đa dạng của các chiến lược, chiến thuật, và triết lý. Những lập luận cho hành động bất bạo động và chống lại bạo lực/bạo động phải được hiểu chỉ là những xu hướng, không có các chân lý phổ quát.

Khi “bất bạo động” được đề ra như một chiến thuật nghiêm ngặt và theo chiều thu hẹp như thể là phương tiện thích hợp duy nhất ở các quốc gia độc tài và chậm phát triển (chứ không là một sách lược hay lý thuyết cho sự thay đổi trong xã hội) thì không thể nào tạo ra các thay đổi sâu rộng và lâu dài.

Chúng ta không thể đồng lõa để các lập luận bất bạo động trở thành tròng thắt cổ diễn luận vì tròng làm bằng vải lụa mượt mà—loại vải lụa đan dệt tinh vi bằng sợi chỉ mang màu lý luận chính trị trọng nhu bất cương.

TẠM KẾT

Dù rằng đây là bài phân tích và phê phán diễn luận bất bạo động, chúng tôi thiết nghĩ cũng cần phải có cái nhìn sâu hơn bề mặt của “diện” (hay “hiện tượng”) để hiểu “điểm” (hay “bản chất”) của các phong trào phản kháng tại Việt Nam.

Hy vọng là thế.

“Bất bạo động” từ nhiều hình thức khác nhau (là tâm công, là vận dụng địch như chiến thuật liên tục làm kẻ thù đổi hướng quay sang phe ta) có thể trở thành nén, dồn năng lượng, chờ đúng thời cơ, đúng hướng bật lên, và chuyển sang tự vệ/đối kháng trực diện bằng cách ĐÁNH ngay vào nhược điểm của bạo quyền.

Và nếu thế thì tùy theo tình hình trong bối cảnh Việt Nam, hành động tự vệ linh hoạt và linh động của nhiều nhóm đoàn sẽ mang tính đột kích đột phá, không phải là bất bạo động tự phát xảy ra nữa, mà đã có thể xảy ra sau khi chuyển từ sử dụng phương cách bất bạo động thực tiễn.

Có lẽ chúng ta—đám đông nhân chứng—phải cởi trói tư tưởng không nô lệ dựa dẫm chỉ vào một chủ thuyết/nguyên tắc/phương cách. Ngoài ra, đám đông nhân chứng tiếp tục rèn luyện khả năng nhận xét/phân tách và tri thức cách mạng, và hun đúc hành động phản kháng/đối kháng giống như là tinh thần và tính cách của NƯỚC.

Nước rất mỏng manh. Nước khởi đầu leo lách.

Nước có đoạn chảy xiết nhưng khi ánh sáng nhiệt đủ độ đốt có thể chuyển sang dạng ngầm. Nhưng nước không tuyệt tử. Nước chỉ ngầm thấm.

Nước róc rách âm thầm tuôn chảy trước khi chuyển thành thác đổ.

Nước khi ấy làm xói mòn đá và lật đổ núi đồi.

Điều oái ăm là nạn nhân, đám đông nhân chứng (trong đó có chúng ta) thường chui rúc ở góc quán lá cuối con đường mang tên “lú lẫn lãng quên”.

Quán lá ấy tồn tại một khi bạo lực được tuyệt đối hóa và đám đông nhân chứng tự mình chấp nhận quán lá “lú lẫn lãng quên” là một nhà lầu nguy nga có chủ quyền và chính thức. Quán lá ấy chỉ tồn tại một khi đám đông nhân chứng tự bằng lòng đu đưa nằm trên võng lưới nô lệ của”nội thực dân”—võng lưới mà tư bản đỏ đã tròng vào, giật dây, và xiết chặt đến độ không muốn vực dậy. Quán lá ấy vẫn mãi tồn tại một khi mà đám đông nhân chứng thích đu đưa trong khoái cảm. Hãy nhìn những thanh niên đoàn CSVN quốc nội, du sinh, và Việt Kiều tại Đông Âu hân hoan khoe khoang trên mạng sau khi xuống đường biểu tình chống Trung Cộng với cờ đỏ sao vàng—một biểu tượng của tổ quốc đã bị bắt làm con tin nhốt vào chuồng của đảng.

Đám đông nhân chứng vì vậy ù lì ở vũng nước tù, vì vậy đi mà như ngủ, đi trong mê sảng như thể chỉ có mình, đi mà như không thấy trên đường bao kẻ với lương tri tỉnh thức bị bạo lực trù dập, quên phắc đi rằng là khi tụ họp và sẵn sàng thì nước sẽ thành thác lũ với sức mạnh dũng mãnh nứt núi, đổ đồi.

Nước nứt núi, đổ đồi phá hủy toàn bộ cơ chế trong ý chí đoàn kết một lòng bất hợp tác toàn diện.

Ai còn biết đến nước thì rõ bản năng của nước—một bản chất lúc len lách, lúc vượt tràn hoàn toàn bất hợp tác với tròng diễn luận “bạo động” hay “bất bạo động” áp đặt sẳn.

Còn biết đến nước. Còn sống với nước. Còn nhớ rằng những cơn thác lũ đã từng sói mòn và cuốn trôi những chướng ngại trên đường ra biển cả ở mảnh đất mang hình chữ S này.

Còn nước—nguồn sinh lực chảy ngầm hội tụ thành cơn lũ cuốn sạch đi những vũng tù độc hại đem lại nguồn sống mới cho dân Việt để nuôi dưỡng linh khí Việt.

Nước là chúng ta, chúng ta là nước.

 

Xem tiếp: Phần I & Phần II

________________________

CHÚ THÍCH

[i]  Swaraj (tự trị) đặt trọng tâm vào cách quản trị không phải do một chính phủ phân cấp mà là thể chế tự quản trị thông qua xây dựng cá nhân và cộng đồng. Chủ đích của tự trị là đối kháng quyền lực thể chế chính trị mang tính tập trung.Thể chế tự trị ở đây là một đường lối phản kháng lại hệ thống chính trị và xã hội do nước Anh khởi thiết chế, khái niệm về Swaraj của Gandhi nhấn mạnh loại bỏ thể chế chính trị, kinh tế, hành chính, luật pháp, quân sự, và giáo dục Anh quốc tại Ấn Độ. Nguyên văn tiếng Anh câu nói của Gandhi: “Let us be clear regarding the language we use and the thoughts we nurture. For what is language but the expression of thought? Let your thought be accurate and truthful, and you will hasten the advent of sawraj even if the whole world is against you.”

[ii]  Galtung, J. (1990). Cultural Violence. Journal of Peace Research, 27(3), 291-305 (trang 291).

[iii]  Galtung, J. (1990). Cultural Violence. Journal of Peace Research, 27(3), 291-305 (trang 294).

[iv]  Galtung, J. (1969). Violence, Peace, and Peace Research. Journal of Peace Research, 6(3), 167-191.

Galtung, J. (1985). Twenty-five years of peace research: Ten challenges and some responses. Journal of Peace Research, 22(2), 141-158.

[v]  “Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử”, Lê Đạt

[vi]  “Đấu tranh bất bạo động, con đường khó khăn và cực nhọc”, RFA phỏng vấn người đại diện đảng Việt Tân, 16/3/2014.

___________

BẤT BẠO ĐỘNG: TRÒNG DIỄN LUẬN?

Phần I: PHẢN KHÁNG CHỐNG BẠO LỰC: DIỆN VÀ ĐIỂM
Phần II: “TỰ VỆ HAY BẠO ĐỘNG?” & “BẤT LỢI VÀ CÓ LỢI CHO AI?”
Phần III: HẠN CHẾ CỦA DIỄN LUẬN BẤT BẠO ĐỘNG & TẠM KẾT

Nguyễn Trung Tôn – Chẳng lẽ dân cứ mãi cam chịu?

In Chính trị (Politics), Tạp văn, Việt Nam on 2014/04/13 at 15:01

VRNs (13.04.2014) – Thanh Hóa – Vào sáng 11.4.2014 Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp để bàn về quy định xử lý trách nhiệm liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư công. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã có những phát biểu rất đáng được ghi nhận. Ông đã “hạ mình, khiêm tốn” trước tập thể Quốc Hội. Ông khẳng định: “Chủ tịch Quốc hội cũng không phải người đứng đầu Quốc hội”. Bới lẽ tất cả những gì Quốc hội đã “quyết” đều do lá phiếu “dân chủ” của tất cả 500 vị đại biểu Quốc hội, bản thân chủ tịch không tự “quyết” nên lẽ đương nhiên là nếu có sai là do tất cả 500 lá phiếu kia, đây cũng là vấn đề xưa nay vẫn thế.

Ai bảo Đảng giao trách nhiệm cho ông đứng vào vị trí đó? Đảng giao trách nhiệm cho ông thì ông buộc phải chấp hành thôi, chứ làm sao ông dám thoái thác? Thủ tướng chính phủ cũng đã từng nói vậy đó thôi.

Nhưng có câu này thì tôi thấy ông nói đúng có một một phần thôi ông ạ.


“Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai.”

1. ”Quốc hội tức là dân.” Theo nguyên tắc và trên danh nghĩa thì Quốc Hội là của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu sự dám sát của dân. Đại biểu nào không làm tròn bổn phận, trách nhiệm thì phải bị nhân dân loại bỏ, để chọn người khác. Nhưng ở chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa này thì người dân đâu có được bầu “ Đại biểu Quốc hội đâu ” Tất cả 500 thanh viên Quốc hội đều được “ Mặt trận tổ quốc ” một tổ chức ngoại vi của Đảng giới thiệu; do sự hướng dẫn của Bộ chính trị; dự nguồn từ Trung ương Đảng chứ thằng dân chúng tôi có biết mặt mũi gì đâu mà bầu với cử. Vậy Quốc hội này đâu phải là dân. Ông nói vậy là oan cho các đồng chí của ông rồi. Các đồng chí ấy là quan chứ đâu phải là dân.

2. “Dân quyết sai thì dân chịu.” Chổ này thì ông nói đúng! Dân chúng tôi đã sai. Cái sai của chúng tôi là đã để cho Đảng của các ông lừa bịp và lợi dụng. Từ những năm 1945 thằng dân chúng tôi đã bị các ông lừa đi cướp chính quyền về cho Đảng của các ông. Sau đó thằng dân chúng tôi lại bị các ông tịch thu tài sản, nhiều người bị đưa ra đấu tố bị tử hình… Ấy vậy mà Thằng dân chúng tôi vẫn chưa sáng mắt ra. Thằng dân miền Bắc chúng tôi vẫn tiếp tục nghe theo Đảng các ông, để tiến vào miền Nam gây nên cuộc chiến “ Huynh Đệ tương tàn”, khiến máu chảy đầu rơi, xương tan thịt nát cả hai miền. Đúng là chúng tôi sai thì chúng tôi phải chịu. Sau năm 1975 tới nay thì thằng dân cả hai miền chúng tôi đã hoàn toàn bị khống chế. Đảng các ông đã thiết lập các chân rết chui sâu vào quần chúng. Uy hiếp cưỡng bức bắt buộc thằng dân chúng tôi phải cúi đầu. Từ đó tới nay thằng dân chúng tôi đâu có được “quyết ” gì đâu. Nhưng chí ít câu nói này của ông cũng đã nhắc cho thằng dân chúng tôi nhớ lại. Tại sao chúng tôi phải chịu cảnh ngậm đắng nuốt cay này. Bởi trước đây vì thằng dân chúng tôi đã “ quyết ” sai nên bây giờ phải chịu. Nhưng thưa ông vấn đề đầu tư công thì thằng dân chúng tôi đâu có biết gì. Nhưng dù ai làm sai đi nữa thì thằng dân chúng tôi cũng đành phải chịu.

3. “Chứ kỷ luật ai.” Chổ này ông nói hay thật đấy! Đảng ta làm gì cũng tài tình sáng suốt. Chỉ có thằng dân đen chúng tôi mới sai chứ, làm sao mà kỷ luật được ai trong số các đồng chí “Đảng hội” của các ông được. Vì họ là người do Đảng cử, Đảng giao trách nhiệm mà có sai thì cứ sửa, sửa không được thì mặc dân. Dân chịu tuốt chứ các đồng chí của ông có phải chịu đâu mà sợ. Chổ này ông cũng đã học được từ ngài thủ tướng Dũng khi ngài nói trước chính phủ rằng: Ngài cũng sẽ noi gương cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, không kỷ luật đồng chí nào trong chính phủ. Bây giờ ông chủ tịch Quốc hội cũng sẽ chẳng kỷ luật đồng chí nào trong Quốc hội.

Vậy là sau nhiều năm làm phó thủ dưới trướng của ngài Dũng, ông đã trở thành học trò xuất sắc rồi đấy. Ngay cả bây giờ ngồi trên ghế chủ tịch Quốc hội rồi ông vẫn còn áp dụng rất tốt những bài học đó hết sức hiệu quả còn gì.

• Nói tóm lại; Đảng các ông không bao giờ có thể thừa nhận mình đã sai được, vì Đảng của các ông là một tập thể của những kẻ luôn luôn dùng thủ đoạn mưu mô để hút máu nhân dân, dần đưa dân tộc này trở lại thời kỳ “ Đồ đá” qua cái gọi là “ Thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” mà nạn nhân của cuộc thử nghiệm không bao giờ thành của các ông chính là nhân dân Việt nam.

Thưa ông: Ông nói đúng, Thằng dân chúng tôi đã sai thì chúng tôi phải chịu. Nhưng chúng tôi chịu hết nổi rồi. Chúng tôi không thể chịu hơn được nữa. Chúng tôi đã, đang và sẽ vùng dậy để hành động và sẽ chọn cho mình một con đường đúng đắn. Lúc đó chắc chắn ông không còn phải lo biết tìm ra ai để kỷ luật, vì tất cả những kẻ gây nên tội ác với nhân dân sẽ do chính nhân dân định đoạt.

Nguyễn Trung Tôn

ĐT: 01628387716.

Nguồn: VRNs

Uwe Siemon-Netto – Phía Sai Trái Đã Thắng

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Việt Nam on 2014/03/11 at 22:46

BBT:  Dưới đây là bản dịch của VietSoul:21 cho một bài luận mang tính tổng hợp mới đây mang tựa đề The wrong side won của Tiến Sĩ người Đức Uwe Siemon-Netto.

Đây cũng là bài dịch thứ ba của chúng tôi trong loạt bài viết liên quan đến một cựu phóng viên quốc tế người Đức đã tường thuật nhiều sự kiện lớn trên thế giới trong vòng 57 năm chẳng hạn như việc xây dựng và sự sụp đổ của bức tường Berlin, cuộc chiến 6 ngày giữa Ả Rập và Do Thái, cuộc Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Cộng, và vụ ám sát Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy.

Ông Siemon-Netto nguyên là tổng biên tập về tôn giáo của United Press International, hiện là bình luận gia quốc tế và một nhà thần học (không phong chức) của đạo Lutheran. Ông là sáng lập viên của Center for Lutheran Theology and Public Life (CLTPL) và chủ tịch của tổ chức “The League of Faithful Masks” đặt bản doanh tại Capistrano Beach và trường Concordia University Irvine, California.

Với tư cách một nhà báo, ông chuyên về những đề tài liên quan đến niềm tin, xã hội và ngoại giao. Ông hiện là cộng tác viên thường trực của tờ “The Atlantic Times,” một tờ báo tiếng Anh hàng đầu của giới báo chí Ðức tại Mỹ.

Mối quan hệ của ông Siemon-Netto đối với Việt Nam rất mật thiết. Trong khoảng thời gian năm năm (từ năm 1965 cho đến năm 1969 và sau đó một lần nữa vào năm 1972) với tư cách phóng viên chiến trường tại Việt Nam, ông đã chứng kiến tội ác Việt Cộng tại Huế kỳ Mậu Thân 1968, trong đó một số người quen của ông là 3 bác sĩ người Ðức cùng với vợ của một người đang làm việc thiện nguyện tại trường Y Khoa Huế đã bị thảm sát. Ông còn là nhân chứng của một số xung đột khủng khiếp, đặc biệt là trận chiến đẫm máu tại thung lũng “Ia Drang” trong năm 1965.

Sau hai bản dịch cho các điểm sách của Michael PotemraJoseph Reitz, chúng tôi chọn dịch tiếp bài thứ ba là bài viết của chính tác giả vào cuối năm vừa rồi trên tạp chí The American Legion–một tạp chí chuyên về các đề tài liên hệ đến các cựu chiến binh Hoa Kỳ.

Trong bài viết này ông đã dùng ngòi bút qua kinh nghiệm xương máu tại chiến trường Việt Nam để mô tả tội ác khủng khiếp của Cộng sản. Ngoài các chuyện kể cảm động từ các nhân chứng đã sống trong những giây phút cuối cùng của tháng 4 năm 1975, ông kể lại cảm xúc của mình đối với thành phần sinh viên và trí thức cánh tả với rừng cờ Mặt Trận GPMNVN khi đang sống tại Paris trong cùng khoảng thời gian đó.

Ông cũng không quên phê phán thái độ không trung thực của giới truyền thông Hoa Kỳ vào thời kỳ chiến tranh ấy. Ông còn dùng dẫn chứng để bạch hóa chuyện phương Tây không có các phương tiện tâm lý và chính trị để chống lại một cuộc chiến tranh kéo dài.

Đọc bài viết này chúng ta có thể thấy được tại sao sau hơn nửa thế kỹ mà tác giả vẫn không thể quên vô số nạn nhân vô tội do Cộng sản gây ra trước và sau khi có cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam bắt đầu từ năm 1975. Đây là bài viết dựa vào quyển hồi ký mới của nhà thần học này mang tựa đề Đức: A reporter’s love for a wounded people xuất bản vào năm ngoái 2013.

Ngay đầu cuốn hồi ký ông đã viết những chuỗi dòng thương nhớ tưởng niệm sau đây:

Tưởng niệm

Cuốn sách này được viết nhằm tưởng nhớ vô số các nạn nhân vô tội trong cuộc xâm chiếm Miền Nam Việt Nam bởi Cộng sản, đặc biệt là:

– Hàng trăm ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị tàn sát trong các làng mạc và thành phố, nhất là tại Huế;

– Hàng trăm ngàn chiến sĩ và công cán chính VNCH đã bị hành quyết, tra tấn hoặc bỏ tù sau khi chiến tranh kết thúc;

– Hàng triệu người đã bị xua đuổi ra khỏi quê hương và hàng trăm ngàn người đã bị chết đuối trong quá trình đi tìm tự do;

– Các chiến sĩ VNCH đã anh dũng chiến đấu khi đã mất tất cả và các tướng lãnh oai hùng đã quyên sinh vào những giờ phút cuối cùng;

– Các thanh niên miền Nam và Bắc Việt Nam động viên vào quân ngũ đã bỏ mạng trong cái gọi là “chiến tranh giải phóng” nhưng đã không mang lại tự do cho ai;

– 58.272 binh lính Hoa Kỳ, 4.407 Đại Hàn, 487 Úc; 351 Thái và 37 Tân Tây Lan đã hy sinh tại Việt Nam ;

– Các đồng hương người Đức của tôi, trong đó có BS Horst-Günther và Elisabetha Krainick, BS Alois Alteköster, BS Raimund Discher, GS Otto Söllner, Bá Tước Hasso Rüdt von Collenberg và nhiều người khác đã đến như những người bạn và phải trả giá bằng mạng sống của họ.

Trong tư cách một phóng viên và nhân chứng lịch sử, tác giả sau đó đưa ra các dữ kiện tình tiết liên quan đến nạn nhân của một cuộc chiến mà bên sai trái đã thắng và chia xẻ nhiều kỹ niệm khó quên trong suốt hồi ký của mình.

Qua các phân tích và chứng minh chiến thắng của Cộng sản Việt Nam đặt trên căn bản của tội ác, ông không chấp nhận chiến thắng đó là một cuộc giải phóng. Ông đàm luận rằng phe sai trái đã thắng nhờ vào khủng bố, tàn sát và phản trắc.

Hồi ký của ông đã được ra mắt tại quận Cam tại California vào dịp Quốc Hận năm ngoái với hai phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt. Phiên bản tiếng Việt là Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc nhiều đau thương được hai biên tập viên của Diễn Ðàn Cựu Sinh Viên Quân Y dịch. Hai cựu sinh viên quân y này là Nha sĩ Lý văn Quý tại Little Saigon/Quận Cam và Dược Sĩ Nguyễn Hiền tại Hòa Lan đã “dịch vừa sát nghĩa vừa đượm hồn Việt”. Quý vị có thể tham khảo videobài nói chuyện của tác giả (hay bản dịch tiếng Việt) trong dịp sinh hoạt này của Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y với sự hỗ trợ của tổ chức Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ và Tù Ca Xuân Điềm.

Phiên bản tiếng Đức đã xuất hiện và bản tiếng Anh vừa tái xuất bản vào năm nay với nhiều bổ túc và sửa chửa. Điều bắt mắt là tít cho bìa tiếng Đức, “Mein Vietnam. Warum die Falschen siegten”–tạm phỏng dịch “Việt Nam của tôi: Tại sao bọn Sai Trái lại chiến thắng?”. Ngược lại trong lần tái bản tiếng Anh này thì ông đã cho đặt thêm cụm từ “Vinh quang của sự Phi Lý” (Triump of the Absurd) lên tựa đề ngoài bìa sách và xử dụng thuật ngữ “bị bỏ rơi” thay vì “nhiều đau thương” khi nói đến dân tộc Việt Nam.

Một số chương mẫu (Preface, Chapter 1-“Comme la mer, comme le ciel”, and Epilogue) trong nguyên bản tiếng Anh có thể tìm thấy trên trang nhà của tác giả. Quý bạn cũng có thể tìm đọc các chương mẫu bằng Việt Ngữ tại các trang mạng nối sau đây:

Chương 1: Như biển cả, như bầu trời

Chương 15: Tết Mậu Thân: Hỏa ngục Huế

Đoạn kết: Hậu quả của khủng bố và hiệu lực của hy vọng

Toàn quyển (do ông Lý Văn Quý &  Nguyễn Hiền dịch, tại trang của ông Phan Ba): Vinh Quang của Phi Lý

Nhân dịp 30 tháng 4 năm nay ông sẽ đi một vòng Châu Âu để ra mắt sách. Nhưng trước tiên ông Siemon-Netto sẽ ra mắt hồi ký bằng Đức ngữ của mình tại Hội Chợ Sách được tổ chức ngay tại nơi ông đã sinh trưởng—thành phố Leipzig (Đông Đức cũ). Quý vị có thể mua sách tại Amazon hay trang nhà của tác giả, http://www.siemon-netto.org hoặc viết thư liên lạc với tác giả tại siemon-netto@siemon-netto.org hay quyvanly@aol.com

Đọc tiếp »

Tình yêu , Sự thật, và Việt Nam

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Việt Nam, Văn Chương on 2014/03/08 at 23:36

Điểm sách của Michael Potemra

National Review Online, 18/7/2013

Bản tiếng Anh: “Love, Truth, and Vietnam” by Michael Potema

Ai mà muốn những vết thương của Việt Nam bị toang mở lần nữa? Nhưng sự thống khổ của đất nước đó vẫn là những bài học cho tất cả chúng ta. Uwe Siemon-Netto là một phóng viên chiến tranh thời đó, và ông vừa xuất bản một cuốn hồi ký về nó, Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc nhiều đau thương. Như những hồi ký thực sự xuất sắc, chính những chi tiết nhỏ nhất trong sách đã làm bức tranh lớn trở nên linh động. Siemon-Netto đã chứng minh rằng Bắc Việt là khách hàng quân sự chủ yếu bên ngoài châu Âu của Đông Đức, quốc gia này đã cung cấp mìn gây chết người gọi là PPM-2. Nhiều lần chạy xe dọc quốc lộ 19 ở Việt Nam, ông thấy rằng hầu hết những người bị giết bởi mìn PPM-2 là phụ nữ và trẻ em, bởi vì người dân thường di chuyển bằng xe cộ sơ sài không có khả năng tự vệ so với xe quân sự chuyên chở lính tráng lẽ ra là mục tiêu chính của mìn.

Siemon-Netto không chỉ đơn thuần là một người quan sát từ xa về các tổn thất nhân mạng của thường dân trong cuộc chiến đó. Ông kể lại câu chuyện trong một lần đến bệnh xá của người Đức chữa trị cho thường dân ở Việt Nam, trong khi chiến trận đang diễn ra ở ngoài:

Một bác sĩ trẻ người Đức đang làm việc ráo riết để cứu mạng sống. Trên một bàn mổ dã chiến tôi thấy có một người phụ nữ nằm mê man với lòng ruột phòi ra ngoài một vết thương lớn ở bên trái bụng của cô.

“Bạn có phải là bác sĩ?” Ông BS hỏi.

“Không phải, tôi là phóng viên.”

“Không sao, tôi cần sự giúp đỡ ngay bây giờ. Không còn ai ở lại đây để giúp tôi một tay. Bọn Việt Cộng bắt cóc tất cả. Bạn đi rửa tay ở đằng đó rồi đeo găng tay phẫu thuật vào và hãy tự biến mình thành người hữu dụng.”

Để đặt các bộ phận lòng ruột của người phụ nữ trở lại vị trí cũ, [bác sĩ] đã phải cắt toang bụng cô. Sau đó, ông cần thêm một đôi tay nhét chúng vào bụng qua vết thương hở bên trái của cô. Việc đó thành phận sự của tôi . . . 

Một chủ đề khác mà Siemon-Netto biểu lộ thật mạnh mẽ và rõ ràng là việc chuyện con người ta khoác trên người mình quá dễ dàng một mai rùa kiên cố để phủi lưng (tay) với sự thật. Nhiều năm sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, Siemon-Netto đã về lại Đức:

Tôi tham dự cuộc họp buổi sáng của một tờ báo trí thức Đức nơi tôi làm việc dưới tư cách là một tư vấn biên tập. Công việc của tôi là giúp các biên tập viên và nhà xuất bản này hiện đại hóa tờ báo cổ hũ của họ trong hy vọng rằng nó sẽ đạt tầm cỡ hàng đầu của nước Đức thống nhất . . . .

Các cuộc thảo luận chuyển sang chủ đề cho các câu chuyện tiêu biểu từ Đông Đức cũ.

“Xin xem đây như một đề nghị”, tôi nói. “Sao ta không thử làm một báo cáo chuyên sâu về các nhà sản xuất Đông Đức làm mìn PPM-2, những tàn tích liên quan đến các nạn nhân mà tôi chứng kiến trên dọc cả Quốc Lộ 19 tại Việt Nam? Sao không thử tìm kiếm tài liệu lưu trữ của Đông Đức về bộ máy tuyên truyền cáo buộc Tây Đức đồng lõa trong chiến tranh Việt Nam, và có lẽ đã dẫn đến cái chết của một số bác sĩ và y tá của chúng ta tại Việt Nam?”

Ối trời, tôi đã đạp vào ổ kiến lửa bằng lời gợi ý này! …Dù đây không phải là một tờ báo cánh tả nhưng một số biên tập viên trẻ tự mãn đã trở mặt giận dữ làm tôi tự hỏi có quả thực là thể chế Cộng sản Đông Đức đã thực sự biến mất. Cái ý thức hệ của phong trào sinh viên năm 1968 tôn vinh Hồ Chí Minh đã bắt rễ quá nhiều trong thế hệ của sinh viên tốt nghiệp trường đại học Đức nên bất cứ đề cập nào đến những hành vi vô nhân đạo của Việt Cộng sẽ bị coi là một dị giáo.

Nó cũng không làm tôi ngạc nhiên khi các biên tập viên lớn tuổi, những người lẽ ra phải hiểu biết hơn, vẫn nghĩ là thiếu thận trọng nếu hỗ trợ cho tôi. Nhà thần học Lutheran Dietrich Bonhoeffer một lần từng than vãn là sao mà “lòng can đảm từ công dân quá khan hiếm” ở nước ông ta khi bị Đức quốc xã thống trị…Cái thiếu hụt này nhất định vẫn hiện còn kéo dài ở vài nơi chốn.

Tất nhiên đây không chỉ là một điều thuần tính cách của người Đức: Đây là một xu hướng phổ quát của con người luôn ghét vị thần mang hung tin, và khi sự giận dữ chống lại vị thần sứ giả đưa tin này dâng cao thì ngay cả những người lẽ ra phải hiểu biết hơn cũng làm lơ không bảo vệ sứ giả. Nó làm cho người ta nghĩ đi nghĩ lại trước khi lên tiếng, và ngay cả những ai thực sự dũng cảm cũng không có đủ can đảm để nói lên tất cả sự thật trong mọi thời điểm. Nhưng cuốn sách Siemon-Netto là một minh chứng cho việc phải luôn tiếp tục cố gắng là điều cần thiết.

Người dân Việt Nam đã bị phương Tây bỏ rơi trong những năm thập niên 1970, họ vẫn còn bị áp bức cho đến mãi bây giờ, nhưng chuyện của họ vẫn chưa đến hồi kết cuộc. Siemon-Netto kết luận: “Tôi biết rằng [người Việt Nam] sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa độc tài. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó rồi sẽ xẩy ra.”

Về vấn đề cuối vừa đề cập: Hy vọng là một điều có nhiều mãnh lực. Lúc tôi còn là một cậu bé bắt đầu quan tâm đến chính trị, hồi thời những năm 1970, vì tôi chủ yếu nghĩ rằng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản trong chiến tranh lạnh là một điểm quan trọng mang tính cách sinh tử. Nếu hàng triệu người Mỹ coi việc này thật nghiêm túc và thực sự gắng sức, tôi nghĩ, thế hệ của chúng tôi có thể đặt được nền móng cho vài thế hệ tương lai tạo được chiến thắng cuối cùng và sự thất bại tối hậu của đế chế Xô Viết.

Thế mà khi tôi chưa hết lứa tuổi 20 thì điều đó đã xảy ra.

Trước khi cuốn sách này xuất bản, tôi biết các tác phẩm của Siemon-Netto chỉ qua những văn bản về tôn giáo của ông viết cho UPI, và thông qua sự tham gia của ông ở các cuộc tranh luận trong nội bộ của Lutheran. (Ông là một nhà thần học Lutheran khả kính.) Dù cuốn sách này là một thành tựu quan trọng trong một lĩnh vực hoàn toàn khác, nó đã thấm nhuần các nguyên tắc nhân đạo và tôn giáo trong toàn thể các tác phẩm của ông. Cuốn sách này, như ông cho biết trong phụ đề của mình, là một công trình có gốc rễ từ tình yêu.

Michael Potemra

Hồi ký “Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc bị tổn thương”

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Việt Nam, Văn Chương on 2014/03/08 at 18:05

Điểm sách của Joseph Reitz

Books In Review II, 13/10/2013
Bản tiếng anh: “Đức: A Reporter’s Love For a Wounded People” by Uwe Siemon-Netto–Book Review by Joseph Reitz

Phiên bản hồi ký đầu tiên tiếng Anh (2013)

Phóng viên người Đức Uwe Siemon-Netto đưa chúng ta vào Hài kịch Phi Lý của Việt Nam trong suốt hồi ký mang tên “Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc bị tổn thương” (NXB CreateSpace, 278 trang, 25 đô-la, bản in giấy). Chúng ta cùng với anh chứng kiến những biến cố trong chiến tranh Việt Nam vào những năm 1965-69.

Luận cứ của tác giả–từ chương đầu “Tưởng niệm đến Uwe” đến trang cuối cùng của lời bạt phần kết—là cuộc chiến tranh ở Việt Nam không phải là một cuộc chiến giải phóng. Siemon-Netto không phải là người hâm mộ chuyên chú tâm đến số lượng xác người, nhưng số thương vong và số người di tản loạn lạc được liệt kê trong trang tưởng niệm của cuốn sách quả thật là kinh hoàng.

Việc theo dõi chuỗi sự kiện trong cuốn sách đôi khi gặp khó khăn, nhưng đâu có cuộc chiến tranh nào lại diễn ra trong chiều trật tự. Tác giả mô tả cảnh tra tấn, chết chóc, và mất mát chịu đựng của người dân Việt Nam. Những khoảnh khắc hài hước dù hiện hữu đều lồng trong một đám mây bao trùm bởi sợ hãi.

Tác giả là người sống sót sau các cuộc bỏ bom trong Thế chiến II ở Đức, và điều này có lẽ giúp giải thích tại sao tác giả ít khi đề cập đến những nỗi sợ hãi của chính mình khi ở dưới làn bom đạn. Ông có thừa những lần chết hụt để làm cho hồi ký Đức vô cùng kích thích như bất kỳ tiểu thuyết chiến tranh khác. Cách đối xử với một số đồng nghiệp của ông bị bắt bởi VC cho thấy cuộc chiến đó là một cuộc chiến của hận thù và tàn sát – không phải là một cuộc chiến tranh giải phóng.

Siemon-Netto định nghĩa “hài kịch của sự phi lý” như là sự đặt để hai hiện thực trái ngược cạnh kề nhau. Một trong những cặp hiện thực đối lập trái ngược là bài tường thuật của các phóng viên tại chiến trường và hiện tượng mà ông gọi là cách bóp méo biến dạng các sự kiện ấy khi tường thuật với người dân Hoa Kỳ. Một cặp hiện thực tương phản khác liên quan đến nhu cầu của một quyết tâm rất cần thiết cho một cuộc chiến tranh lâu dài đối nghịch với điều mong muốn của người Mỹ cho một chiến thắng nhanh chóng. Tác giả cho thấy là cả hai tình huống này đã dẫn đến chiến thắng của phe cộng sản.

Hài kịch phi lý này có một dàn diễn viên phong phú cho các nhân vật hơn hẳn bất kỳ sản phẩm nào từ phim trường Hollywood. Các đứa trẻ lấy trộm xe của tác giả để đổi lấy một căn nhà, những người phụ nữ cắt sửa quyết liệt cơ thể của họ để hấp dẫn đàn ông Tây phương có thể là bộ phim hài châm biếm trong một tác phẩm hư cấu. Thế nhưng cuộc chiến và những câu chuyện của tác giả thì không có gì gọi là hư cấu.

Một trong những đồng nghiệp của tác giả có thói quen đến các cuộc họp báo khi đã say mềm và hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn. Tại những cuộc họp báo của [Bộ Tư Lệnh Hỗ Trợ Quân Sự (MACV) thuộc] chính phủ Mỹ, mà các phóng viên thường gọi họ là “Bọn Ngu Xuẩn lúc Năm giờ”, hiếm khi thấy có điều gì quan trọng được công bố cả. Đã từng có một cuộc họp báo mà họ đã dành toàn bộ một tiếng đồng hồ nói chuyện về việc một chiến binh Mỹ đái vào bức tường của một ngôi chùa.

Uwe Siemon-Netto

Cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân năm 1968 có lẽ là buổi trình diễn lớn nhất trên hý trường hài kịch phi lý. Sự kiện này chứng minh một bước ngoặt quan trọng trong cuộc chiến. Phi lý nằm ở chỗ trong khi Bắc Việt và Việt Cộng rõ ràng bị thua trận trên chiến trường thì công chúng Mỹ lại chuyển hướng chống chiến tranh. Trong khi việc cuộc chiến kết thúc là không thể tránh khỏi nhưng máu vẫn tiếp tục đổ thêm gần năm năm sau đó.

Siemon-Netto mở lòng với chúng ta khi ông mô tả trận chiến giành lại thành phố Huế, trong đó hàng ngàn người đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã bị sát hại bởi quân miền Bắc Việt Nam một cách có hệ thống. Tác giả kể về các nấm mộ tập thể của người chết và đôi khi mộ của cả những người bị chôn sống.

Vợ của tác giả, cô Gillian, đã theo chồng đến sống ở Sài Gòn. Cô cũng trải qua chuyện sống dưới lằn đạn qua các trận chiến trên đường phố. Siemon-Netto mô tả các bạo động và nguy hiểm hàng ngày mà người dân Sài Gòn phải gánh chịu trong khi các chuyện này rất hiếm được tường thuật lại ở nước nhà [Hoa-kỳ].

Seimon-Netto hoàn thành mục tiêu của ông khi đưa chúng ta vào trọng tâm của một dân tộc bị thương tổn. Mặc dù ông đã phơi bày mảng đen trong trái tim của kẻ ác, ông cũng đưa chúng ta vào ánh sáng và sự kiên cường của những người tự hy sinh vì yêu đất nước và gia đình họ.

Độc giả của tác phẩm Đức sẽ gặt được nhiều thông tin về cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á, hoặc ít nhất sẽ được nhắc nhở về những điều lãng quên.

Uwe Seimon-Netto lập luận rằng tội ác chiến tranh gây ra bởi những người cộng sản là một phần trong sách lược của họ. Trong khi người Mỹ đôi lúc vi phạm tội ác chiến tranh nhưng tội ác của chúng ta không phải là một phần của chính sách chiến tranh. Điều này giúp tôi có một hy vọng cho tương lai của chúng ta.

Trang mạng của tác giả www.siemon-netto.org.

– Joseph Reitz

Alan Phan – Một Quốc Gia Tình Nghĩa

In Liên Kết, Tạp văn, Thế giới, Việt Nam on 2014/03/02 at 10:59

Dối trá lập đi lập lại nhiều lần sẽ thành (như thiệt) chính trị.

Trong quan sát của tôi về lịch sử cận đại, tôi không thấy các chánh trị gia xứ nào có thể sánh với các quan chức Việt Nam về chỉ số may mắn. Đất nước chúng ta có thể được Guinness liệt kê vào bảng kỷ lục về… ”tình nghĩa”.

Ông cựu Tổng Thống Ukraine vừa phải thoát thân qua Nga và lúng túng không biết giải thích sao về những tài sản mênh mông khắp xứ, kể cả một dinh thự trên 138 hectares đẹp hơn cung điện của những Nga Hoàng ngày xưa. Ông Khadafi thì không kịp giải thích, còn ông Mubarak thì ở trong tù lâu quá, trí nhớ hơi kém.

Trong khi đó, tôi nhớ khoảng mấy năm về trước, vài quan chức Việt nói những tài sản kếch xù các mạng truyền thông tìm ra là do công sức “buôn thúng bán bưng” của các bà vợ hiền. Không những đầy ắp “tình” mà các vị này còn may mắn là có cả kho núi tiền do “tài” của những bậc phu nhân. Vì nghe chuyện này mà một thằng bạn Việt Kiều của tôi bỏ xứ Thuỵ Sĩ lạnh lẽo về Việt Nam đi khắp nước, cặp kè hơn 30 triệu bà cô không chồng. Sau 10 năm vất vả, vẫn không thấy một bà nào đủ “tài” tháo vát như các bà vợ quan chức.

Tôi nhớ có khuyên là nó đã bỏ sót một bộ phận không nhỏ là…đạo quân bán vé số… khắp thành thị làng quê. Nếu nhắm vào số lượng biết vui hưởng hạnh phúc XHCN cực nhọc này, thì chẳng mấy chốc bạn tôi sẽ thành đại gia… tỷ phú đô la, ăn xài cả chục đời không hết.

Ngoài “tình”, vài quan chức gần đây còn tuỳ thuộc vào “nghĩa”. Chỉ cần 1 người em kết nghĩa là một ông có thể xây xong một dinh thự hơn 16 ngàn mét vuông, trị gia vài chục tỷ đồng. Theo đánh giá của xã hội tình nghĩa này, càng làm lớn thì càng may mắn và càng có nhiều người em “kết nghĩa”. Tôi nghe nói một quan Trung Ương phải có ít nhất là chục ngàn người em kết nghĩa; còn ở các quận xã nghèo nơi “đất cày lên sỏi đá” thì tệ lắm cũng kiếm được vài trăm em kết nghĩa. Một người em dư xây một biệt thự, vài trăm em thì lên thiên đàng mấy hồi.

Do đó, ở đâu không biết, nhưng tại Việt Nam, mỗi ngày trên TV đều có những giải đặc biệt để xem quan chức hay đại gia nào có nhiều “tình” nhất hoặc nhiều “nghĩa” nhất. Đúng là thời Nghiêu Thuấn cũng không sánh bằng.

Vì sự tôn trọng “tình nghĩa” bàng bạc khắp lịch sử, một giáo sư tuyên giáo trung ương phải phẫn nộ mà kết tội bọn đế quốc Mỹ là tội ác của họ “trời không dung, đất không tha”. Chứ tình nghĩa như người anh kết nghĩa Trung Quốc thì em Việt Nam phải nghìn đời nhớ ơn, năm nào cũng sẵn sàng đem khoáng sản, mỏ dầu ngoài khơi, đi kiếm tiền bọn tư bản, nhập siêu đem về tặng anh kết nghĩa. Còn chuyện chiến tranh biên giới năm 1978 chỉ là một hiểu lầm nhỏ nhặt trong gia đình.

Cách đây vài tuần tôi ghé ngang Hồng Kông, tình cờ gặp một anh bạn cũ làm cho Bộ Ngoại Giao Mỹ. Sau vài trao đổi về thời tiết và gia đình, tôi hỏi anh về tiến bộ trong đám phán TPP, nhất là với Việt Nam. Anh ta cười,” Sao mày nghiêm túc quá. Hết giờ làm việc rồi, hãy để tao enjoy ly whisky này cho trọn vẹn nghe.” Rồi anh kể chuyện tiếu lâm mà anh nói là có thực, đang được hành lang Bộ Ngoại Giao phổ biến.

Một chính trị gia Mỹ đi công cán ở một quốc gia mới nổi. Cô đơn, ông bắt chuyện và gạ được một phụ nữ địa phương ở quán bar lên phòng mình, sau khi thoả thuận giá cả. Ông hăm hở vào cuộc ngay khi cà hai vừa leo lên giường. Bỗng người phụ nữ la làng,” Bớ làng xóm, coi thằng đế quốc tư bản này đang hiếp tôi nè.” Ông sợ quá, cả thân hình như khô cứng, người chết lặng. Bà ta lại chu chéo,” Tôi la gì kệ tôi, sao ông lại ngừng?”

TPP đành phải đợi vậy.

Nguồn: blog Góc nhìn Alan

Stephen B. Young – Ai Thống Trị Việt Nam Ngày Nay? Đảng Cộng Sản Hay Là Hán Ngụy?

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Việt Nam on 2013/12/20 at 04:35

Có một tổ chức hiện nay cai trị Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau như là vua chúa Phong kiến ở Tàu hay ở Âu châu thời Trung cổ. Một bộ máy võ trang tập trung các quyền hành lớn trong tay; không được dân bầu lên, và dân tuyệt đối không có quyền kiểm soát hay phê bình. Tổ chức này mang tên là “Đảng Cộng Sản Việt Nam”.

Nhưng, thực sự, tổ chức nầy có phải là một Đảng đúng nghĩa của một đảng hay không?

Đáng lẽ ra một Đảng chánh trị phải có một chánh nghĩa, một sức mạnh do một lý tưởng, một nền tảng triết lý hay lý thuyết, một khuynh hướng thể hiện nguyện vọng của đảng viên để hành dộng nhằm phục vụ đất nước và dân tộc của mình.

Vì vậy, nếu cái gọi là Đảng Cộng Sản mà không phải là một Đảng đúng nghĩa, thì bộ máy đó là cái gi?

Một tập thể những người có chung một chí hướng tôn thờ người ngoài, một công ty làm ăn, một tổ chức mafia khai thác thị trường đất nước của họ chăng?

Như vậy chúng ta có vài tiêu chuẩn để đánh giá cái gọi là Đảng Cộng Sản bây giờ, đó là một đảng phái hay chỉ là một bọn làm ăn thiếu lương thiện?

Tôi đồng ý đã có thời gian cái goi là đảng Cộng Sản ngày nay có những hoạt động như là đảng phái đúng nghĩa. Nhưng những hoạt động ấy tốt xấu, hay dở, có lợi hay có hại cho đất nước Việt nam là chuyện khác .Tôi nói đó là một “thứ đảng phái” vì lúc ấy đảng Cộng Sản theo ý thức hệ Mác-Lê, vận dụng chủ thuyết mác-lê làm cách mạng võ trang cướp chánh quyền thực dân. Tiếp theo, đảng cộng sản phát động cuộc cách mạng xã hội, tiến hành giai cấp đấu tranh, đấu tố địa điền chủ, ám sát công chức, trí thức, lãnh đạo tôn giáo, tịch thâu tài sản của người giàu có để sau cùng đưa giới lao động, những tên du thủ du thực, lên cầm quyền và khi vào Bộ chánh trị, lại lãnh đạo đất nước, dân tộc. Hành động của đảng cộng sản lúc đó có mục đích thi hành ”chính nghĩa xã hội chủ nghĩa ” theo ý hệ Mác-Lê.

Nhưng từ lâu lắm rồi, cái gọi là đảng Cộng Sản không còn giống như trước đó nữa. Nó đã hoàn toàn biến chất để trở thành một cái gì khác hẳn. Tức nó không phải cộng sản, không mang nội dung mác-lê, không chủ trương giai cấp đấu tranh để tiến lên xã hội công bằng, người không bốc lột người, như kinh điển mác-lê dạy người cộng sản .

Cách đây vài năm, ông Đặng Quốc Bảo, Khoa giáo trung ương, trong một báo cáo phổ biến hạn chế cho đảng viên cao cấp, nói rằng “hiện tại đảng Cộng Sản không còn chính nghĩa chút nào vì thuyết Mác-Lê lỗi thời và cũng không đúng, không khoa học”. Theo ông Bảo, thì đảng cộng sản không nên áp dụng thuyết ấy nữa. Hai ông Mác và Lê đã nghĩ sai về vũ trụ, về trời đất, về đời sống nhân loại. Vậy người thông minh phải vứt bỏ chủ thuyết Mác-Lê.

Nếu ông Bảo đánh giá lý thuyết Mác-Lê đúng, thì đảng Cộng Sản không có một chính nghĩa nào để vẫn khẳng định tiếp tục đưa Việt nam đi theo con đường của mác-lê.

Vậy đảng cộng sản là cái gì? Chỉ là một tập hợp những người đầy tham vọng và quyền lực. Họ không khác gì một thứ giặc cướp đối với nhân dân.

Ông Bảo nói thêm rằng “tổ chức anh chị em cán bộ phải giử quyền cai trị Việt nam vài năm nữa, vì nếu không có một lực lượng mạnh giử ổn định chính trị xã hội, thì nước sẽ loạn và dân sẽ khổ”.

Lấy sự ổn định làm chính nghĩa của mình không có ý nghĩa tốt đẹp vì hoàn toàn thiếu thuyết phục. Chính nghĩa ổn định, nhiều người bình thường có thể nói và thi hành. Cần gì phải có cái gọi là đảng Cộng Sản với 3 triệu đảng viên, với vai trò lãnh đạo toàn diện đất nước và xã hội ? Quân Đội làm được. Phật Giáo làm được. Việt Quốc làm được. Ai cũng hy vọng làm được. Cái gọi là đảng Cộng Sản không thể tự cho là chỉ có họ mới làm được.

Theo tuyên truyền của đảng cộng sản, trong quá khứ, họ có công đức lớn để đứng trên và trước mọi người khác. Tức họ cho rằng họ có vai trò lịch sử.
Có đúng như vậy không?

Để trả lời, giờ đây, Bộ Chính Trị hãy tổ chức gọi hồn các đồng chí của họ đã chết, chết vì hi sinh hay chết oan vì đảng cũng được, để hỏi công việc đảng làm. Rồi, có lẽ họ nên gọi hồn để hỏi cái gọi là đảng cộng sản thật sự có công đức với dân tộc Việt Nam hay không? Rồi, họ có thể gọi hồn để hỏi đảng cộng sản tại sao ngày nay vẫn nói đi theo mác-lê, mà trên thực tế không thấy xã hội việt nam chuyển biến theo mô hình” chính nghĩa Mác-Lê.” một chút nào nữa Vậy thì cái đảng này nên tự giải tán, và có mang tội với đất nưóc, với dân tộc không?

Chúng tôi cũng có thể gọi hồn như Bộ Chính Trị. Chúng tôi có thể gọi hồn các vị cũng nằm xuống, vì nhiều lý do khác nhau, hỏi họ về công đức của cái gọi là đảng Cộng Sản.

Thí dụ, hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, hỏi ôngTrương Tử Anh, Đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng , ông Lý Đông A, Thư ký trưởng Đảng Duy Dân, các nhân sĩ yêu nước Ngô Đình Khôi, Nguyễn văn Bông, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Hồ văn Ngà, Phan văn Hùm, Nguyễn văn Sâm, … và những người dân Huế chết hồi Tết Mậu Thân, vân, vân, … cho đến 1 ,2 triệu người Việt nam bình thường khác, chết trên biển cả, trong rừng sâu, trong các trại tù rải rác khắp cả nước.

Gọi hồn tất cả những người này về và lắng tai nghe họ nói số phận của dân tộc Việt Nam từ khi Đảng Cộng Sản vận dụng “ chính nghĩa Mác-Lê ” để cướp lấy quyền lãnh đạo đất nước và giử độc tôn cho đảng .

Xin trả lời: Công đức ở đâu?

Bằng chứng thứ hai cho thấy cái gọi là đảng Cộng Sản là một đảng thì đảng ấy có hành động cụ thể như thế nào?

Ngoài sự hiểu biết, sự suy nghĩ, sự tính toán của con người, các hành động của người đó phải cho chúng ta thấy rõ, một cách minh bạch, để kết luận người đó tốt hay xấu, giỏi hay dở, đạo đức hay gian ác, cần tồn tại hay nên vứt đi thôi ?

Cái gọi là đảng Cộng Sản đó, cách đây 8 năm, đã tự động hiến dâng đất đai của tổ tiên để lại cho Bắc Triều mới . Và cả biển nữa! Tại sao?

Để đáp ứng sự đòi hỏi của Bắc Triều mới ? Phải.

Ở điểm này, chúng ta hảy nhìn rõ. Cái gọi là đảng Cộng Sản đó vì nhu cầu tồn tại đã dâng đất, dâng biển cho Bắc kinh. Đây là nhu cầu sanh tử. Đảng cộng sản phải làm một việc tội lỗi như vậy chỉ vì đảng lo sợ nhân dân Việt nam hỏi tội của họ đối với tổ quốc và nhân dân từ trước đến giờ. Mà nhân dân hỏi tội có nghĩa là đảng sẽ bị mất quyền cai trị. Hoặc một vụ Thiên An Môn Việt Nam sẽ xảy ra .Trước nỗi ám ảnh mất quyền lực, đảng cộng sản cần sự ủng hộ, sự tiếp tay của Bắc Triều mới, mặc dầu có tổn hại đến quyền lợi tối thượng của Quốc gia.

Như vậy đảng cộng sản ở Hà nội không thể tự cho là một đảng có chính nghĩa yêu nước được, mà phải bị kết án là một đảng bán nước mới đúng.

Nếu đảng Cộng Sản Hà nội chuyên tâm phục vụ cho đòi hỏi, tham vọng của Bắc Triều mới, thì Việt nam tất nhiên phải lâm nguy làm thân nô lệ cho Hán Tộc. Nếu chỉ có riêng cái đảng cộng sản làm nô lệ hán tộc thì chúng ta hà tất phải tốn lời.

Thực tế ở Việt nam cho ta thấy công an, tình báo của Việt Nam đều do công an, tình báo Trung Quốc đào tạo và cố vấn. Nhờ đó mà công an, tình báo Hà nội mới có đủ bản lãnh đàn áp những người dân chủ ở Việt nam, đàn áp dân oan nạn nhân của những vụ đất đai bị đảng cộng sản tước đoạt, đàn áp những vụ biểu tìng chống Trung quốc xăm chiếm đất đai bằng vũ lực và thô bạo.

Nhìn lại lịch sử Việt nam thì từ thời Ngô Quyền đến nay, chỉ có vài nhà vua Việt nam theo Bắc Triều một cách xấu hổ như vậy. Có Nhà Mạc phải xin sự ủng hộ của Hoàng đế phương Bắc để đối phó với Nhà Lê. Có vua Lê Chiêu Thống xin Trung Quôc gởi binh qua Hà nội để đánh anh em Nhà Tây Sơn. Có vua Gia Long và Minh Mạng lấy y thức hệ Tống Nho của Nhà Thanh bên Tàu để làm nền tảng đạo lý xây dựng uy quyền cho Nhà Nguyễn . Nhưng các ông vua này không làm mất đất, mất biển vào tay ngoại bang chỉ vì quyền lợi riêng tư như đảng cộng sản ngày nay.

Cầu viện thường hay lệ thuộc tư tưởng của kẻ khác, khó tránh khỏi bị dẩn đến mất chánh nghĩa quốc gia. Phải chăng vì thế mà Nhà Mạc đã không thắng Nhà Lê, vua Lê Chiêu Thống thua Quang Trung Nguyẽn Huệ. Riêng Nhà Nguyễn vì chọn lựa sai lầm học thuyết lỗi thời mà cứ khăng khăng ôm giữ nên thua người Pháp. Tức một thứ lệ thuộc tư tưởng.

Khi có được chỗ dựa mạnh là Bắc kinh, cái gọi là đảng Cộng Sản sẽ đánh bại được toàn dân Việt nam chăng? Tức đảng cộng sản vỉnh viễn đàn áp, bốc lột nhân dân chăng?

Mới đây khi nghe tin Bắc Kinh tổ chức Hoàng Sa và Trường Sa trở thành môt đơn vị hành chánh mới trực thuôc Tỉnh Hải nam, lập tức xảy ra nhiều cuộc biểu tình của dân chúng thanh niên, sinh viên ở TP Hồ Chí Minh, ở Hà nội, chống chánh sách xăm lược của Trung Quốc. Cái gọi là Đảng Cộng Sản không dám lên tiếng phản đối kẻ cướp đất, trái lại thô bạo đàn áp dân chúng công khai bày tỏ lòng yêu nước. Khí thế của nhân dân Việt nam bây giờ làm cho đảng cộng sản Hà nội bắt đầu lo sợ. Nếu đảng cộng sản khôn ngoan thì hảy thấy ở đây, tức ở nhân dân, mới là chổ dựa vửng chắc hơn thế của Trung Quốc.

Nhưng cái gọi là Đảng Cộng Sản nghe theo ai?

Buồn mà nói. Vì nói cho đúng thì phải nói lớn và nói rỏ phe nhóm cai trị Việt Nam hiện nay là một bọn Hán Ngụy.

Tiếc vì chúng tôi biết chắc chắn có nhiều đảng viên của cái gọi là Đảng Cộng Sản không muốn như vậy. Họ thương dân, yêu nước thật lòng. Nhưng họ lo sợ, có thể vì bất lực, cho sự an nguy của bản thân và gia đình trước những thủ đoạn khéo léo, gian ác, đê hèn của lực lượng Công An, Tình Báo đang có mặt kắp nơi rình rặp.

Bọn Hán Ngụy thật sự không có nhiều người, nhưng họ có thế mạnh và nhiều tiền bạc. Họ quyết tâm giữ quyền lực cai trị đất nước mãi mãi Họ sẽ làm cái gì phải làm để không mất địa vị cầm quyền, tức quyền làm ăn, làm giàu của họ.

Lệ thuộc Bắc Kinh, đối với họ, là một giá phải trả, họ chấp nhận trả, để có phương tiện ổn định xã hội chính trị Việt nam, tức duy trì chế độ độc tài toàn trị. Ổn định là cho quyền lợi của họ . Đất nước đối với họ chỉ là phương tiện trao đổi.

Trung Quốc có một triết lý bình định thiên hạ từ đời Tần Thủy Hoàng. Ông ấy lấy ý kiến của phái Pháp Gia gồm lý thuyết âm dương, ngũ hành để kiến tạo thái hòa. Làm chính trị như vậy không theo sự giảng dạy của Khổng Mạnh, trái lại, đưa ra chính sách đại đoàn kết, giữ phép nước dưới sự lãnh đạo đọc tôn theo một vị hoàng đế . Đó là thuyết của Mặc Địch.

Cái đạo chính trị này – “ hoàng đế chính thuyết ”– là lý thuyết xây dựng xã hội không cần nghe ý dân. Đi từ trên xuống, không phải từ dân lên. Ngày nay là tập trung dân chủ, tức dân chủ xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ chí minh. Hoàng Đế nghe trời, ra lịnh và thiên hạ phải tuân theo. Dân không nghe theo thì sẽ bị phạt, nặng nhẹ tùy theo mức độ của sự phản bội, bất hiếu đối với chế độ.

Một ông Hoàng Đế không cần đức, không cần uy tín mà vẫn giữ được ổn định xã hội. Hiếu nghĩa thay thế nhân nghĩa. Cấp trên nói cái gì thì cấp dưới vâng dạ theo răm rắp. Nói vô phép, mất dạy, thì bị phạt, không được phần thưởng.

Đạo làm hoàng đế có mục đích lấy ý trời và qua cơ cấu hành chánh, ép thiên hạ vâng lịnh làm theo ý đó, mặc cho họ muốn hay không.

Trong lịch sử Việtnam, các Nhà Lý, Trần và Lê không lấy đạo Hoàng Đế của Bắc Triều để trị dân. Nhà Lý và Nhà Trần theo đạo Phật. Nhà Lê cho đến Vua Lê Thánh Tôn theo quan điểm nhân nghĩa do Nguyễn Trãi viết ra.

Vua Lê Thánh Tôn bắt đầu theo chủ nghĩa Bắc Triều , tức lấy Tống Nho bênh vực ngôi vị Hoàng Đế một cách mù quáng với đạo hiếu nghĩa cha mẹ, vua chúa. Đến Nhà Mạc, Chúa Trịnh, thì ảnh hưởng Tống Nho ở cấp quan văn và các đại gia đình quan chức mở rộng. Nhà Nguyễn áp dụng Tống Nho và quan điểm hoàng đế, đưa triều đình Huế đi theo gương Nhà Thanh bên Tàu.

Trước đây, cái gọi là đảng Cộng Sản chụp mũ những người Việt nam không Cộng Sản mà hợp tác với Mỹ Quốc để giữ độc lập cho miền Nam Việt Nam là “Mỹ Ngụy” .

Bây giờ, nhìn về quá khứ thì chúng ta có thể đánh giá ai có công lớn hơn cho Dân Tộc Việt nam: Mỹ Ngụy hồi đó hay Hán Ngụy bây giờ ?

Người Mỹ khi họ giúp các Chính Phủ Việt nam Cộng Hòa, khi họ làm cố vấn cho Chính phủ và quân đội quốc gia, họ thật sự muốn gì? Họ khuyến khích người Quốc Gia làm gì? Họ đòi hỏi Chính Phủ Sài gòn có chính sách nào?

Nói chung, người Mỹ từ Tổng Thống Eisenhower cho đến Tổng Thống Nixon, từ Đại Sứ Elbridge Durbrow cho đến Đại Sứ Ellsworth Bunker, tất cả đều yêu cầu Chính Phủ Sài gòn lo cho dân, áp dụng chế độ hiến trị, tổ chức các cuộc bầu cử từ xã ấp đến trung ương, trong sạch, dân chủ, cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế, mở rộng giáo dục theo tôn chỉ “nhân bản, khoa học, khai phóng ” …

Đối với Mỹ thì ý dân là hơn ý trời. Mỹ không bao giờ theo “ hoàng đế chính thuyết ”.

Như vậy làm Mỹ Ngụy là chọn phương pháp lo cho dân, cho quê hương Việt nam, cho văn hóa, đạo đức dân tộc. Người Mỹ đến Việt nam, không ở lại Việt nam. Và “dân ngụy.” không hiến dâng đất dai, biển cả cho ngoại bang. Hơn nữa, trong lịch sử, người Mỹ không làm thuộc địa, không làm Thái thú, chỉ làm bạn đồng minh giai đoạn.

Còn người Việt nào bây giờ làm Hán Ngụy thì phục vụ ai ? Họ có lo sợ số phận Tổ quốc của họ không ? Hay chỉ có chung một thứ Tập hợp những người cùng chí hướng tôn thờ quyền lợi bản thân mà thôi?

Stephen B. Young

GS Stephen B. Young, người Hoa Kỳ, Luật sư, nói tiếng Việt, có vợ là người Việt, đã sang VN nhiều lần. Đọc kỹ bài viết, mọi người sẽ thấy cách hành văn của một người ngoại quốc viết tiếng Việt, nhưng rất kinh điển, rành lịch sử Việt Nam

Stephen B. Young, Global Executive Director of the Caux Round Table, is a lawyer and writer. He has served as Dean of the Hamline University School of Law and as an Assistant Dean at Harvard Law School

Nguồn: Việt Thức