vietsoul21

Posts Tagged ‘Dân chủ’

Người Buôn Gió – Vinh thành ký (phần 2)

In Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2013/01/12 at 08:39

Lúc 6 giờ sáng tôi mở mắt, hai người bạn vẫn ngủ say. Tôi mở cửa ban công nhìn xuống đường nhìn. Trời vẫn mưa lắc rắc và rét buốt. Bên kia đường, bên này đường, hai đầu đường, quanh khách sạn có khoảng 40 dân phòng chia làm mấy tốp, dùi cui, băng đỏ chỉnh tề. Chưa kể những người thường phục đứng quanh họ.

Một chốc có thêm chiếc xe tải to chở đến 30 dân phòng nữa, họ đổ xuống và đi thẳng vào khách sạn đứng quanh cửa. Những người dân nhìn họ rồi nhìn khách sạn ngạc nhiên như hỏi có chuyện gì. Tôi quay vào pha trà, cầm cốc trà trên tay với điếu thuốc, quấn thêm cái khăn. Tôi đứng ban công hút thuốc, uống trà và nhìn mấy chục người dân phòng đi lại trong giá rét thấy họ thật vất vả.

Quay vào tôi gọi hai người bạn đang ngủ say.

– Dậy đi, sắp bắt rồi, có gì thì chuẩn bị đi.

Các bạn tôi dậy nhìn cửa sổ, họ đánh răng, rửa mặt thu xếp đồ. Lúc này tôi thấy cáu với Lân Thắng, nó vốn thư sinh, công tử nên rất lề mề, làm cái gì cũng bài bản đủ lệ bộ. Nhưng  mọi cái cũng xong. Chúng tôi ai về giường đấy nằm. Tôi bảo chúng ta ra xe về Hà Nội thôi, Thắng bảo ra thì việc gì phải vội, cứ ngủ thêm tí nữa.

Thế là chúng tôi lại ai nằm giường đó ngủ.

Cửa phòng bật mở, kinh hoàng, hai mươi người đàn ông to khoẻ xộc vào phòng. Họ quát chúng tôi ngồi im, ai ngồi chỗ nấy. Người trưởng thôn có vẻ cay tôi nhất, ông ta xông tới cướp điện thoại trên tay tôi. Nhưng tôi kịp bấm nút tắt nguồn. Lúc này căn phòng chật ních người, tôi không thể nhìn thấy gì ngoài người và người. Một người chửi.

– đm cái bọn phản động này, bắt hết luôn.

Tôi bật cười nhẹ, khiến nhiều người trong số họ ngạc nhiên, và chính câu nói của người kia làm tôi thấy bình thản. Tôi ngồi yên mỉm cười nhìn họ. Chắc nhiều người đi bắt chúng tôi hôm đó ngạc nhiên lắm, vì họ chưa bao giờ nghĩ bắt bất ngờ như vậy mà các đối tượng thái độ thản nhiên như đang chờ đợi vậy.

Họ khoắng hết đồ chúng tôi cho vào hành lý của chúng tôi, lục soát người chúng tôi thấy có tiền họ lại nhét trả vào ví. Rồi họ dẫn chúng tôi xuống tầng, phải đến 30 người bên trong khách sạn và 30 người bên ngoài toàn mặc thường phục. Con số thường phục đến 60-70 người, chưa kể công an và dân phòng. Nhưng công an, dân phòng chỉ đứng cản đường cho những người thường phục thực hiện cuộc bắt bớ kinh hoàng này.

Tôi đã xem nhiều phim hành động, hay phim thời sự về các cuộc bắt bớ. Nhưng tôi chưa thể hình dung mình bị bắt bởi nhiều người đến nỗi chính những người bắt phải rẽ làn người mà đi. Có thể họ dùng nhiều vậy vì che khuất tầm nhìn không có ai chụp ảnh được, hoặc có thể họ e ngại người dân Vinh , nơi mà tôi có nhiều bạn bè kéo đến.

Chúng tôi bị tống lên xe chở tù loại đặc biệt, có thùng kín đằng sau, trên xe cứ một người chúng tôi thì hai người thường phục bám tay hai bên. Công bằng mà nói họ chỉ bám tay chứ không bẻ hoặc vặn hay bấu mạnh gì cả, họ chỉ bám nhẹ trong tư thế sẵn sàng khống chế. Xe chạy hú còi, có xe dẫn đường, xe hộ tống , đoàn xe đi qua chỗ toà án Vinh đang xét xử 14 thanh niên Công Giáo. Ba rie chặn đường mở cửa, tôi nhìn qua khe cửa thấy đông người đội mũ trắng đang đứng ở hè đường trước toà.

Xe chở chúng tôi vào công an TP Vinh, khi mở cửa rất nhiều công an,an ninh đứng dưới sân đợi. Họ dùng máy quay phim ghi lại hình ảnh chúng tôi bước xuống xe chở tội phạm. Nhiều người trong số họ nhìn chúng tôi với vẻ tò mò, háo hức ý như kiểu vừa bắt được những tên tội phạm nguy hiểm.

Chúng tôi bị đẩy vào 3 phòng riêng. Họ chỉ tôi ngồi vào ghế, cái phòng kiểu hỏi cung thì tôi vốn quá quen thuộc, nó giống bất kỳ đâu ở TP HCM, Đà Nẵng, Lạng Sơn, B14, Hà Nội….một cái bàn đơn giản nhưng chăc chắn, những cái ghế cũng kiểu đơn giản truyền thống, dưới chân ghế sát tường là cái cùm chân nặng chịch. Tôi nhấc thử cái đế cùm và ngạc nhiên bởi cái cùm của công an TP Vinh nặng và to không nơi nào tôi thấy có thể sánh nổi. Nó là một cái thanh sắt đặc dày 6cm, bản 12 cm, dài 120 cm, như là một khối sắt.

Nhưng chúng tôi không bị cùm, cũng không bị động vào người, trong túi tôi còn thuốc lá bật lửa, tôi lấy ra để bàn định hút. Một công an trẻ vớ lấy bao thuốc kiểm tra với bật lửa, xong trả tôi hút. Tôi hỏi có nước uống cho tôi xin, họ lấy nước trà xanh cho tôi uống. Tôi uống trà hút thuốc, còn bên ngoài hành lang, trong phòng công an đi lại rầm rập trao đổi về chúng tôi. Một vị thượng tá an ninh đeo kính trắng vào hỏi.

– Hiếu à.?

Tôi gật đầu.

– Hiếu Gió phải không.?

Tôi mỉm cười không xác nhận gì cả, dường như vị thượng ta an ninh này biết rõ về tôi. Khi ông ta qua ra ngoài nói ở hành lang.

– Hiếu Gió đấy.

Mấy người khác vào nhìn mặt tôi, có người nói Hiếu Gió viết hay lắm đấy. Ai đó nói vẻ nửa tiếc, nửa trách.

– Viết tốt thế mà không viết báo đàng hoàng, toàn đi viết láo lếu trên mạng.

Người khác nói.

– Thì viết trên mạng được tiền nước ngoài mà.

Tôi lại mỉm cười, viết cho báo nhà nước thì cũng phải được tiền chứ. Mà sự thật thì viết cho báo nhà nước cỡ như tôi thì chắc chắn sẽ được rất nhiều tiền, được ưu đãi nhiều chế độ vì cứ so ra thì thấy khả năng viết báo của nhiều nhà báo chính thống chẳng thể nào hơn được tôi lắm, dù có khiêm tốn thì cũng phải nhận thế chứ chẳng phải tôi ngạo mạn gì . Tôi có bao giờ viết theo đơn đặt hàng của báo nước ngoài nào để nhận tiền đâu. Thích gì tôi viết lấy, chả lấy ai xu nào, miễn phí. Ai đọc thấy quý thì gửi cho tí trà thuốc nào thì gửi. Tôi không hề đòi, không có gì cũng tốt, tôi vẫn viết như thường để khỏi mang tiếng là viết cốt để kiếm ăn. Đời tôi từng buôn thuốc phiện, đòi nợ thuê, chém mướn,cho vay lãi, cầm đồ, cá độ bóng đá,rồi hoàn lương làm giám đốc công ty quảng cáo, xây dựng… tôi viết blog để kiếm tiền hay không thì ai đọc và biết tôi đều rõ.

Tôi cứ mỉm cười nhiều lần trong ngày hôm ấy. Đến nỗi cậu trẻ tên Diệp hay Tiệp trông tôi phải nói.

– Anh Hiếu lạc quan, yêu đời nhỉ, ngồi trong công an mà cứ tủm tỉm cười suốt.

Tôi tưởng làm việc với an ninh, nhưng không, bên cảnh sát vào làm việc. Hoá ra ban nãy họ trao đổi xem bộ phận nào làm việc với chúng tôi. Sau cùng họ quyết định để phòng cảnh sát điều tra PC44 tỉnh Nghệ An thụ lý do thượng tá Vũ Văn Duệ phó trưởng phòng chỉ đạo, cùng với các điều tra viên cấp cao hàm thương tá như ông Quang, Hướng, Đồng hỏi cung.

Nguồn: Người Buôn Gió

Người Buôn Gió – Vinh thành ký (phần 1)

In Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2013/01/12 at 08:34

Tôi vào đến Tp Vinh lúc 10 giờ 30, thành phố Vinh chìm trong cái giá lạnh và mưa. Hai thằng chúng tôi vội vã vào ngay cái khách sạn nhìn thấy đầu tiên. Tôi làm thủ tục đặt phòng, trình chứng minh thư. Tôi nói với lễ tân cho buồng 3 người, một người nưã sẽ đến. Lễ tân hỏi chứng minh thư, tôi đưa CMT của mình và hỏi thêm – có cần của 2 người kia không.?

Cô lễ tân nhìn tôi ngạc nhiên, chắc cô nghĩ tôi thuê khách sạn lần đầu. Thường thì ở khách sạn nào cũng thế, một người trình chứng minh thư là đủ. Bởi thế cô nhìn tôi thông cảm và nói không cần. Chả lẽ cô ấy nói không cần mà tôi lại cứ đưa cô ấy bắt phải nhận, thế thì cũng lạ, tôi đành phải để mọi việc diễn ra theo lệ thường.

Khi vào phòng, tôi nhìn cửa không có chốt bên trong. Thế này người ta có thể xộc vào. Tôi nói có tìm được cái gì gài chốt không nhỉ.? Thắng vào khách sạn đã vội giở đồ đạc, tôi tìm không thấy cái gì để chốt nên cũng thôi. Đổi phòng thì không được vì chỉ còn phòng này có 3 người, được cái phòng sát ngoài nên có thể đứng ban công hay bên trong nhìn qua cửa quan sát.

Sự mệt mỏi vì quãng đường khiến tôi lơ là những thứ lặt vặt ấy như thủ tục cmt, chốt cửa. Tôi vào nhà tắm xả nước nóng , cơ thể rã rời. Tôi cần phải ngủ.

Trương Văn Dũng đến, chúng tôi mỗi thằng một giường. Chăn ấm, nệm êm, tắm rửa xong, nằm trên giường ăn gói mỳ tôm, uống trà, hút thuốc…rồi tôi chìm vào giấc ngủ.

Khoảng 1 giờ đêm, có tiếng con gái gọi cửa. Cô ta bảo mở cửa cho vào có việc. Lân Thắng nằm bên ngoài bước tới cửa, tôi nói.

– Không được mở, đêm hôm con gái gọi, mở lỡ có chuyện gì khó thanh minh.

Thắng không mở, tôi bước ra nói với cô gái bên ngoài.

– Em xuống đi, có chuyện gì mai gặp, bọn anh không có chuyện gì với em để mở cửa.

Ngay tức khắc có tiếng mấy người đàn ông.

– Chúng tôi là công an đây, đề nghị mở cửa.

Tôi mở cửa. Hai người cảnh sát và hai người đàn ông thường phục bước vào. Người đàn ông xưng là trưởng thôn hoạch hoẹ chúng tôi về giấy tờ không đủ. Tôi hỏi anh kiểm tra gì, ông ta nói kiểm tra giấy tờ vì không đủ. Tôi hỏi nếu đủ thì sao, ông ta nói vì thiếu hai người nếu có đủ chứng minh thư thì thôi. Tôi hỏi thôi là không có gì nữa chứ, ông ta nói là có giấy tờ là thôi.

Tôi bảo hai người bạn đưa giấy tờ, nhưng tôi nói người đàn ông mặc thường phục đó lui lại, để người cảnh sát quân hàm đại uý có biển tên là Trương Bá Quang nên nhận giấy tờ. Họ cầm giấy tờ rồi đi xuống, chúng tôi đóng cửa và ngủ tiếp.

2 giờ đêm, lại có tiếng gõ cửa xưng công an. Tôi mở cửa, lần này thì đông người hơn, cảnh sát , an ninh, thường phục đủ loại đến hơn chục người. Một người đàn ông thường phục có dáng chỉ huy vào đòi kiểm tra hành lý chúng tôi vì chúng tôi sơ suất không trình đủ giấy tờ ban đầu. Chúng tôi cãi về việc đã trình đủ, và khách sạn không yêu cầu, việc tôi thuê căn phòng này có giá trị như tư gia của tôi trong thời gian tôi thuê, mọi việc sách nhiễu, kiểm tra đều không đúng luật. Ngoài ra công an làm vậy là gây khó khăn, cản trở cho doanh nghiệp khách sạn khi người ta kinh doanh có giấy phép, đóng thuế.

Và tôi nói ông ta mặc thường phục, không có tư cách gì đòi hỏi khám xét và hoạch hoẹ chúng tôi.

Mấy người quân hàm trung tá, thiếu tá bảo đó là sếp của họ. Tôi nhìn ông ta hơn mình nhiều tuổi, nên gọi bằng anh xưng em.

Tôi hỏi ông sếp là anh định kiểm tra đồ của em hay khám xét. Nếu là kiểm tra các anh phải có văn bản thành lập tổ công tác liên ngành, toà án, viện kiểm sát… làm theo chuyên đề, nghị định, thông tư…chứ không thể mình công an kiểm tra ai là cũng được. Nhất là trong trường hợp không bắt quả tang phạm tội, không có tố giác có căn cứ, không có dấu hiệu nghi vấn vì bọn em đang ở khách sạn giấy tờ đầy đủ. Còn nếu anh định khám xét thì lại càng phải có lệnh bắt, lệnh khởi tố, lệnh khám xét. Đòi hỏi của anh là không đúng pháp luật, cho nên bọn em không nghe theo được. Nhưng ( tôi nhấn mạnh) chúng em không có hành vi chống đối, cứ đứng khoanh tay cho anh muốn làm gì thì làm.

Ông sếp công an nói.

– Chúng tôi là công an, có quyền, chúng tôi nói anh phải nghe. Sai trái gì tôi chịu trách nhiệm.

Tôi tức giận khi nghe câu ấy.

– Anh nói anh là công an, anh bảo tôi nhảy xuống sông, qua của sổ này chết tôi cũng phải nghe à, rồi anh chịu trách nhiệm sau à.?

Sếp công an loay hoay rồi nói.

– Thì chúng tôi yêu cầu kiểm tra, anh không cho thì thôi.

Ông ta tiến vào chỗ giường chúng tôi ngủ cùng với tay xưng là trưởng thôn. Tôi nói họ.

– Yêu cầu hai anh ra khỏi khu vực nội vụ của chúng tôi đang sinh hoạt. Các anh không được quyền đi qua sau lưng chúng tôi vào chỗ này khi chưa có lý do chính đáng.

Sếp công an đi ra, trừng mắt nhìn tôi. Cái toán đi theo ông ta im lặng, những người đó không nhìn tôi đe doạ mà nhìn như kiểu nài nỉ là đừng gay gắt với ông ta như thế. Nhưng tôi thì nào biết cái gì, đã thế ông ta ra gần đến cửa tôi còn bắt ông ta quay lại khám đồ chúng tôi. Tôi nói.

– Ông làm công an gì mà tuỳ tiện, đòi khám không được là thôi, thế thì các ông thích quấy rầy là quấy rầy à. Tôi đề nghị ông khám đồ như ông nói, và khám theo đúng luật, lập biên bản nói rõ lý do khám xét rồi tiến hành có nhân chứng. Ông không thể xộc vào đòi hỏi rồi lại đi như thế.

Ông ta đi không nói gì, tôi đứng cửa nói với các bạn.

– Ở đây bị sách nhiễu, không ở nữa, đi chỗ khác.

Ông ta quay ngoắt lại lệnh cho mấy công an trẻ.

– Không cho đi đâu hết, chặn lại ở đây.

Tôi bảo.

– Này thế là ông cản trở quyền tự do đi lại của công dân, cao hơn nữa là giam giữ người trái pháp luật đấy.

Ông ta cứ thế mà đi, Tôi thấy mấy cậu cảnh sát trẻ măng mặc phong phanh đứng ngoài bèn bảo hoj.

– Bọn em vào ngủ với anh cho đỡ lạnh, hay thuê phòng bên cạnh, chứ đứng đây cả đêm chịu sao nổi.

Một cậu công an lí nhí.

– Thôi sếp ra lệnh thì bọn em đứng đây thôi.

 

Bọn tôi vào phòng, mở cửa sổ nhìn xuống đường, xe ô tô đi lại cấp tập, chạy đi chạy lại, rồi hai xe ở lại chắn cửa cùng nhiều người.

Bọn tôi đi ngủ, mai có gì tính sau.

Nguồn: Người Buôn Gió

Người Buôn Gió – Nuôi án

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2012/10/25 at 15:07

Nuôi án thường có trong các vụ án hình sự. Người ta muốn có chiến công, thành tích nên khi phát hiện những đối tượng có manh nha phạm tội thì họ lặng lẽ theo dõi. Không bắt bớ, ngăn chặn ngay. Thậm chí họ còn cài đặc tình vào thúc đẩy việc phạm tội lớn hơn. Nuôi án hay có trong các vụ như mại dâm, buôn ma tuý, cờ bạc, buôn lậu,…đặc điểm của những “án nuôi” là có tổ chức, có sự phát triển theo thời gian.

Nhiều đối tượng bán lẻ ma tuý, chứa cờ bạc, cầm lô đề, cho vay lãi, bảo kê hoành hành được thời gian. Nghĩ mình lo lót hết, nhưng một ngày đẹp trời bỗng nhiên bị thộp cổ. Bọn nhỏ thì nhiều vô kể, còn bọn lớn thì như Khánh Trắng, Năm Cam.

Thật ra về số má giang hồ về đao búa, cái thang tính điểm của anh chị giang hồ thì cả Năm Cam, Khánh Trắng đều không có. Nhưng do được che chở của thế lực nào đó, từ một người đạp xích lô trở thành tay anh chị trùm bến bãi, lúc có vị trí rồi thì lúc đó không muốn thì cũng không thể làm ngơ nếu bị kẻ khác xúc phạm. Có lẽ Khánh Trắng chết một phần là do hắn, còn phần nữa là những kẻ đã dựng hắn lên. Nói thế mới chính xác. Cuộc đời Khánh Trắng nếu không một ngày gặp một vị đỡ đầu, thì giờ đây theo đà cuộc sống từ đạp xích lô, vợ bán hoa quả cứ chăm chỉ làm ăn. Khánh Trắng đã ngồi an nhàn uống bia hơi đầu Ô Quan Chưởng, vất xe tải cho một gã lái thuê nào đó. Chỉ việc điều hành chở hàng. Còn bà vợ thì ngồi một sạp hàng hoa quả chỉ đạo vài cô gái trẻ giúp việc cân đo, bó buộc hàng cho khách. Cuộc sống tương đối khá giả, bình bình. Sự thật thì nhiều anh chị ngang hàng Khánh Trắng thậm chí còn số má hơn lúc mà Khánh Trắng đạp xích lô giờ đây đã có cuộc sống như thế.

Thôi thì cứ gọi cho là số phận. Nhưng hẳn Năm Cam, Khánh Trắng ở suối vàng còn ôm khối hờn cả cục với những kẻ đã một thời bao che cho họ.

Nói gì thì nói, nuôi án không phải là việc chính đáng, thậm chí đó còn là đồng loã, tiếp tay cho tội ác. Người có trách nhiệm khi thấy mầm mống của tội phạm thì phải răn đe, giáo dục, ngăn chặn từ đầu. Nhưng công việc đó tương đối là thầm lặng, hiệu quả thì không rõ ràng. Chẳng ai có thể có chứng cứ để báo cáo thành tích rằng tôi đã ngăn chặn một ổ cờ bạc, ổ chứa mại dâm bằng cách khuyên bảo, giáo dục, ngăn ngừa ngay từ khi tên chủ quán mới định bán bia lắp đèn mờ, có xây phòng kín…Bởi chỉ có một xã hội mà người ta theo tiêu chí khác, con người ở đó khác thì họ mới cầm đồng lương và cố gắng làm những việc ngăn chặn cái xấu khi nó chưa xảy ra.

Còn ở đây, thành tích phải bằng số ma tuý cân được, số tiền cờ bạc thu được, số người bị giết…thành tích được miêu tả đầy hào hứng về con số, con số càng lớn thì thành tích của những người chỉ huy chiến dịch, bắt bớ, điều tra lại càng lớn.

Một đất nước thành tích thể thao năm sau cao hơn năm trước, chỉ số kinh tế năm sau cao hơn năm trước là điều rất đáng mừng. Nói nôm na là nếu anh năm nay mua sắm 10 đồng, năm sau 20 đồng thì là điều rất đáng mừng.

Nhưng thành tích bắt tội phạm thì không tương tự như thế nếu chúng ta biết suy nghĩ. Chả lẽ chúng ta hào hứng vì cảnh sát tháng trước bắt 20 bánh ma tuý, tháng sau chiến công rực rỡ hơn là bắt được 40 bánh. Rồi vài năm sau lại thấy khen thưởng rầm rộ vì phá vụ án có 100 bánh heroin.

Bạn thấy sắp có cuộc đánh nhau, hai người hàng xóm chửi nhau theo tiến độ căng hơn, theo kinh nghiệm bạn thấy họ sắp vác dao đến nơi. Bạn gọi điện lên công an phường báo tin. Một lúc sau họ xuống thì sự đã rồi, họ lập biên bản, lấy nhân chứng, bắt bớ, lấy cung. Có người đã trách công an là lúc đó xuống luôn thì không nên chuyện. Anh công an chân tình nhăn nhó trình bày, khổ lắm nhưng mà việc nó chưa xảy ra thì làm sao mà xuống được!!!

Nói về băng nhóm tội phạm như thời Khánh Trắng, Năm Cam, Dung Hà thì chuyện giết người so với bây giờ còn kém xa. Các băng nhóm thời đó vào cảnh mà họ cho là không thể chấp nhận, cân nhắc kỹ mới quyết định thanh toán đối thủ. Chứ còn bây giờ năm ba cậu thanh niên làm bóng, cho vay lãi, cầm đồ hứng lên là vác súng, dao truy sát. Thậm chí chả phải chuyện làm ăn, mà chỉ ở trong quán bar, quán phở dẫm chân lên nhau, nhìn đểu nhau là có thể vác súng bắn vỡ đầu nhau luôn.

Mấy lần nghe thấy cán bộ lãnh đạo công an nói rằng thiếu nhân lực. Mặc dù năm sau nhiều hơn năm trước. Lập thêm đội dân phòng, đội trật tự tự quản, xung kích, dân quân tự vệ để hỗ trợ công an. Dường như vẫn chưa đủ để lực lượng này đảm bảo số lượng duy trì an ninh, trật tự.

Tội phạm gia tăng dẫn đến tăng cường quân số, trang bị, vũ khí…một cái vòng tương tác cứ như thế kéo dài. Nếu người ta không chú ý đến giáo dục, thậm chí còn có ý đồ nuôi án để lấy thành tích. Thì đương nhiên cái vòng luẩn quẩn đó còn phải nói đến nhiều.

nguyenphuonguyen_nucuoi.jpg

Sinh viên Nguyễn Phương Uyên

Những chuyện về tội phạm hình sự như thế này không kể thì ai cũng biết. Sở dĩ hôm nay kể vì gặp chuyện bất ngờ. Thường chỉ gặp nuôi án trong các vụ kinh tế, cờ bạc, cưỡng đoạt (bảo kê bến bãi, nhà hàng), mại dâm…chứ ở những vụ như an ninh chính trị thì không bao giờ có.

Thế nhưng mới đây nghe chuyện một cô bé sinh viên bị bắt, đồn rằng người ta phát hiện từ nhiều tháng trước, cài đặc tình vào theo dõi, rồi để đến khi truyền đơn tung ra họ mới bắt.

Không tranh luận chuyện cô bé có tội hay không có tội, vì đó sẽ là cuộc tranh luận còn diễn ra dài dài đến khi nào cô ấy được thả. Về quan điểm của tôi tất nhiên là cô bé không có tội, nói vậy để các bạn khỏi tranh luận về cô bé có tội hay không. Chuyện ấy sẽ tranh luận ở phần khác. Phần ở đây là chuyện nuôi án cơ.

Về phần những người bắt cô gái thì họ sẽ khẳng định cô bé có tội, bởi thế họ theo dõi từ lâu, cài người để nắm bắt, thậm chí có thể là tác động để cô và các bạn tiến hành hoạt động mà họ nghĩ là đủ chứng cứ để bắt. Vậy là nuôi án đấy.

Đến án chính trị, an ninh quốc gia mà còn nuôi án nữa. Thì thực sự một kẻ xuất thân từ dân lưu manh vốn tưởng đã không có gì bất ngờ với chế độ này, một lần nữa phải kinh ngạc vì hiểu biết của mình vẫn còn non kém quá.

Một đất nước ổn định về chính trị, cứ tưởng là không có những người phạm tội chống chế độ, tuyên truyền nói xấu chế độ, âm mưu lật đổ chế độ cơ. Chứ đã đầy rẫy những người ra toà vì tội như thế rồi mà lại còn nuôi án cả những tội đó để lấy thành tích nữa thì quá là đáng ngại.

Mong sao chuyện đó không phải là sự thật.

Theo blog Người Buôn Gió

Huỳnh Thục Vy – Nghĩa hay lợi?

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Việt Nam on 2012/10/18 at 15:24

Phàm người ta làm mọi việc ở đời cũng chỉ vì nghĩa hay vì lợi… Người quân tử chỉ nghĩ đến điều nghĩa mà dốc lòng vào việc thiện. Dù việc thiện nhỏ thế nào cũng không bỏ qua. Kẻ tiểu nhân thì chỉ nghĩ đến điều lợi, hễ thấy lợi thì dù ác thế nào cũng thực hiện“.

Đó là một câu ghi trên đài tưởng niệm liệt sĩ chống pháp Phước Ninh, Đà Nẵng. Đọc câu nói mang nặng màu sắc Nho giáo này trong một bài viết, tôi đã suy nghĩ rất mông lung về những giá trị cổ xưa mà ông cha ta đã suy tôn trong hành trình “tự Hán hóa” của mình. Đối với nhiều người, có lẽ câu nói rất ấn tượng, mang tầm vóc một phương châm sống đầy giá trị và đậm chất luân lý. Nhưng theo tôi, không thể nhận thức đơn sơ về “nghĩa” hay “lợi” như thế.

1/ Quân tử và nền đức trị

“Quân tử” trong cách hiểu cơ bản nhất của người Trung Hoa xưa, là người cai trị. Do đó, từ này nguyên khởi được dùng để chỉ những người thuộc tầng lớp thượng lưu của xã hội quân chủ Trung Hoa và một số quốc gia du nhập Hán học khác. Với quan điểm đức trị mà Khổng giáo ra sức truyền bá hay thậm chí là áp đặt, những người cai trị là những kẻ tài đức vẹn toàn, là những ông vua anh minh mang tầm vóc thánh nhân, là những ông quan phụ mẫu chi dân. Theo cách dùng ấy, chúng ta hiểu rằng, quân tử là những người tài đức xuất chúng và có khả năng thống soái thiên hạ. Sau này, “quân tử” còn được dùng để chỉ những người có trí tuệ, đức độ, chính trực và hay làm việc nghĩa.

Quả tình, tôi không thích Nho giáo, không thích cả những khái niệm của nó. Các giá trị Khổng Nho xa lạ và không gây ấn tượng tốt với tôi. Bởi trong nền văn hóa ấy, người ta luôn miệng nói về đạo đức nhưng không có bất cứ một định chế khả dĩ nào để bảo vệ những giá trị luân lý ấy. Cũng chính trong nền văn hóa ấy, nơi mà kẻ cai trị được mặc định là những người vừa có tài thao lược, vừa có đức hạnh, chúng ta chỉ thấy đầy dẫy những kẻ bất chấp thủ đoạn để thoán đoạt thiên hạ hoặc ích kỷ hại nhân. Nào là Lưu Bang giết Hàn Tín sau khi đã thâu tóm thiên hạ về một mối, Lý Thế Dân giết anh em để lên ngôi hoàng đế…

Thật vậy, đạo đức xã hội không bao giờ được giữ gìn bằng cách hô hào, mà chỉ bằng thể chế chính trị, bằng luật pháp và phần còn lại được giao phó cho những định chế xã hội khác như: tôn giáo, giáo dục… Ngày hôm nay chúng ta biết rằng, động cơ hành động của con người là tự lợi. Bởi nhận chân ra điều ấy, nhân loại mới tạo lập thể chế dân chủ pháp trị. Kẻ lãnh đạo không thể trở nên tài đức chỉ vì mang cái danh quân tử. Ngược lại, ngay từ đầu họ phải được giả định là kẻ xấu, có khả năng lạm quyền, tư lợi, và phải được kìm chế bởi một cơ chế chính trị nghiêm khắc. Ở đó, họ bị đặt vào tình huống: nếu họ vi phạm những cam kết với người dân, hậu quả mà họ lãnh nhận sẽ lớn hơn nhiều so với mối lợi mà họ có được khi vi phạm. Nhân loại ngày hôm nay không tin tưởng vào những phẩm giá tốt đẹp được gán (một cách hão huyền) cho kẻ cầm quyền theo kiểu đức trị. Với thể chế chính trị tự do, người dân dõng dạc tuyên bố với kẻ cai trị rằng: “Các ông cứ tỏ ra tốt đẹp bề ngoài, còn chúng tôi không biết thâm tâm các ông mưu tính chuyện gì. Nhưng nếu các ông làm bậy, các ông sẽ nhận hậu quả nhãn tiền”.

2/ Nghĩa hay lợi

Trở lại với câu nói đã được đề cập ở đầu bài viết, nó hoàn toàn đặt trên bình diện đức trị của Nho giáo, phản thực tế và phản khoa học. Theo đó, người ta chia con người thành hai loại: một, hành động vì nghĩa; hai, hành động vì lợi. Phân loại con người thô thiển như thế sẽ dẫn tới những ngộ nhận tai hại. Trong mỗi một con người, có cả bản năng vị kỷ và bản năng cộng đồng. Động cơ, hoài bão và hành động của con người là tổng thể những mối tương tác của các bản năng này chứ không thể phân biệt nhị nguyên như trên.

Như đã nói ở trên, trong thực tế, nhân loại có xu hướng hành động vì lợi ích. Bản thân việc hành động vì lợi không phải là việc xấu xa về luân lý. Việc xem lợi ích là một giá trị tiêu cực về đạo đức là đi ngược lại quy luật tự nhiên, và thậm chí là cản trở sự tiến bộ. Đối với nền văn hóa Khổng Nho, chỉ có những kẻ thấp kém về tư cách và tài năng mới hành động vì lợi, còn thánh nhân thì hành động vì nghĩa. Nhưng mặc cho những giáo điều mà họ rêu rao, con người là con người. Mặc cho những truyền giảng đạo đức to lớn của họ, những kẻ đứng đầu thiên hạ, những quân vương được lưu danh sử sách, luôn là những người hành động vì lợi. Ai nói những quân vương độc tài như Tào Tháo, Lưu Bị, Chu Nguyên Chương… hành động vì nghĩa? Thật trớ trêu, trong một nền văn hóa luôn xiển dương đạo đức, chính ở đó, đạo đức bị chà đạp thô bạo nhất, và hơn nữa bị lợi dụng để mang lại lợi ích cho kẻ cầm quyền độc tài.

Người ta quên mất rằng, điều quan trọng là cần phải xác định: “nghĩa” là nghĩa như thế nào, nghĩa đối với ai; còn “lợi” là lợi gì, lợi ích cho ai; chứ không phải chỉ nói “nghĩa” và “lợi” chung chung. Và việc đồng hóa “nghĩa” với “thiện”, “lợi” với “ác” như câu nói trên thật không thỏa đáng. Rất nhiều khi, cái “nghĩa” dành cho thiếu số sẽ là họa cho đa số còn lại (ví như: việc vì ơn mưa móc chúng ta từng có được từ Đảng cộng sản làm cho chúng ta không thể lên tiếng chí trích Đảng hoặc chỉ trích không tới nơi chỉ có thể là “nghĩa” với Đảng thiểu số chứ chẳng thể là nghĩa đối với đa số còn lại); và cũng như thế, “lợi”(dù là tư lợi) cũng không bao giờ là đồng nghĩa với “ác” nếu cái lợi ấy đạt được bằng những phương tiện hợp pháp, hợp luân lý.

Ấy vậy mà, chữ “nghĩa” lòe loẹt ấy trong suốt thời quân chủ ở Trung Hoa và Việt Nam đã là cái gông đeo cổ cho toàn xã hội, đã là giá trị “sáng lòe” để nô lệ hóa cá nhân, để phục vụ cho những cá nhân cai trị mang danh tập thể. Đến thời kỳ Cộng Sản, chữ “nghĩa” lại bị lợi dụng để kéo hàng triệu thanh niên ngây thơ vào “cuộc chiến chống đế quốc” mà thực ra là cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Thế mới biết “nghĩa” không đứng trơ trọi một mình để bắt người ta phải hành động, phải hy sinh; cái “nghĩa” đó phải đi cùng với lợi ích to lớn và lâu dài của cộng đồng thì mới có giá trị, xứng đáng là “nghĩa” thật. “Nghĩa” mà không mang lại lợi ích thiết thực cho cá nhân hay cộng đồng thì việc chạy theo nó là điều vô ích. Cái “nghĩa” mà không đi kèm với sự suy xét chín chắn có khi lại gây họa cho bản thân và nghiêm trọng hơn là cho cộng đồng.

Xét đến chữ “lợi”, mỗi cá nhân là phần tử của xã hội, lợi ích dành cho mỗi cá nhân là góp phần vào lợi ích chung của xã hội. Bởi vậy, sự mưu cầu lợi ích cá nhân, mà không xâm hại đến lợi ích của các cá nhân khác và của xã hội là điều tốt đẹp và cần được phát triển. Còn đối với những trường hợp mang lại lợi ích cho xã hội, thì “lợi” này mới chính là “nghĩa” thật. Cái “lợi” ấy, bây giờ không chỉ mang ý nghĩa luân lý tích cực, mà còn là sự thể hiện của trí tuệ.

3/ Sự cáo chung cần thiết của nền đức trị

Việc cổ xúy đức trị thừa kế từ nền văn hóa Khổng Nho đã mở đường cho sự thâm nhập dễ dàng của nền “đức trị Cộng sản”. Văn hóa “đức trị” ấy đã “trao tặng” cho Việt Nam một Hồ Chí Minh thủ đoạn hơn người nhưng được tôn vinh thành “vị cha già dân tộc đại trí đại tâm”. Nền đức trị không bao giờ ngăn nổi người ta trở thành những kẻ độc tài tàn bạo; mà ngược lại còn “thánh hóa” kẻ độc tài ấy, và đưa đến khả năng chính danh hóa sự cai trị chuyên chế qua nạn sùng bái cá nhân bệnh hoạn.

Trong cuộc đấu tranh hôm nay, chúng ta đấu tranh vì “nghĩa” sao? Điều đó không sai, nhưng chưa đủ, chúng ta đấu tranh vì “lợi” nữa chứ. Nền dân chủ tự do sẽ mang lại cho toàn thể quốc gia này cũng như mỗi một cá nhân trong xã hội những lợi ích to lớn. Chúng ta đấu tranh cho dân chủ không phải vì nó tốt chung chung theo kiểu mị dân, mà vì nó mang lại lợi ích thực tế đã được kiểm chứng trên thế giới cho cá nhân và xã hội, mang lại sự thăng tiến tất cả các mặt của đời sống chính trị xã hội. Chính cái lợi ích to lớn ấy đã mang lại cho cuộc đấu tranh cái danh diện chính nghĩa chứ không phải là những giáo điều xơ cứng, màu mè. Nói cách khác, cái danh “chính nghĩa” là “bộ áo” bên ngoài ,còn lợi ích thật bên trong (hướng về thiểu số hay đa số) mới quyết định bản chất của “nghĩa”. Cộng sản đã khoác bộ áo “chính nghĩa” để tàn phá đất nước này đó thôi. Bởi thế khi đánh giá sự việc, ta không đánh giá qua “bộ áo chính nghĩa” ấy mà xét tận gốc rễ cái lợi ích mà nó mang lại sẽ thuộc về ai. Chúng ta mang lại lợi ích cho ai, điều đó sẽ cho thấy chúng ta là bậc đai phu hay kẻ tiểu nhân, chứ không phải chỉ nhìn nhận phân biệt đơn sơ giữa “nghĩa” và “lợi”.

Ngày hôm nay, chúng ta không hướng đến một xã hội có những cá nhân tỏa hào quang của thánh nhân mà là một xã hội với những định chế vững vàng và có khả năng kiềm tỏa quyền lực chính trị, bảo vệ tự do cá nhân. Sự hô hào đạo đức, nhân văn chẳng thể mang lại nhân văn, đạo đức thật; chỉ khi nào người ta bị buộc phải hành động như thế nếu không họ sẽ bị loại bỏ, trừng phạt thì lúc đó xã hội mới tiến bộ được. Vì vậy, xin hãy để tâm thức Khổng Nho cùng những giá trị mà nó xiển dương lùi vào quá khứ, nhường đường cho những giá trị mới.

Huỳnh Thục Vy
Tam Kỳ ngày 10 tháng 10 năm 2012

Vũ Đông Hà – Đứa nào là tổ sư lợi dụng lòng yêu nước?

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Việt Nam on 2012/07/28 at 15:57

 

Đứa nào thay tên đổi họ, che tông họ Cộng, dấu tích loài Sản, rao hàng Việt minh, lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để “cướp chính quyền”?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để cướp xong là độc lập thành độc quyền cai trị đất nước?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để lập nên điều 4 và sau đó có đứa tuyên bố bỏ đi là tự sát?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để gào lên “Thương cha, thương mẹ, thương chồng / Thương mình thương một, thương Ông thương mười / Yêu con yêu nước yêu nòi / Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!; để oe oe Tiếng đầu lòng con gọi Stalin?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để thiết tha tha thiết “Bên kia biên giới là nhà/ Bên nầy biên giới cũng là Quê hương”?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để sẵn sàng đốt cháy Trường Sơn, xua hàng triệu thanh niên Việt Nam vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn, sinh Bắc tử Nam?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để nướng hàng nghìn thanh niên Việt Nam trên núi rừng Tây Nam?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để gửi thanh niên ra chiến trường Việt Bắc và sau đó làm đẹp lòng quân xâm lược – nay đã trở thành đồng chí 4 tốt 16 vàng – xóa bia đục mộ những người con nước Việt hy sinh vì tổ quốc?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để cắt đất, chia rừng, bỏ biển, bỏ đảo cho những con cắc kè đồng chí-xâm lược-đồng chí đã từng huênh hoang “dạy cho VN một bài học”?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để Ải Nam Quan, nửa Thác Bản Giốc và một phần lãnh thổ biên giới Việt Trung bị xóa tên trên bản đồ Tổ quốc?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để ký công hàm dâng đảo, để ngày hôm nay Hoàng Sa – Trường Sa được các đồng chí “bên kia biên giới là nhà” chính thức trương bảng Tam Sa?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để treo đèn lồng phương bắc, gắn thêm sao trên cờ đỏ 4 cánh, rình rập âm mưu đem tiếng nước “lạ” dạy cho học trò con nít dân ta?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để tống giam thiếu nữ biểu tình tại nhà – đả đảo quân xâm lược?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để đạp mặt chính “đồng chí” của mình xuống đường phản đối bọn xâm lăng?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để bắt người phụ nữ lên tiếng bảo vệ biển đảo vào trại phục hồi nhân phẩm?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để bán rẽ tài nguyên tổ quốc?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để vẽ vời các đề án phát triển đất nước nhằm rút ruột công trình?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để ăn cắp tiền bá tánh ODA?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để vay tiền mượn vốn và làm giàu trên núi nợ của quốc gia?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để đổ lên đầu nhân dân Vinashin, Vinalines, trái bom bùn đỏ bô xít trên nóc nhà Tây Nguyên?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để ra đi từ vô sản trở về là tài phiệt, tư bản đỏ?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để bám ghế giữ quyền trong khi tự thú nhận cả đám là một bầy sâu – sâu nhỏ, sâu lớn; cả lũ từ trên xuống dưới càng chỉnh càng đốn?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để phán rằng đóng phí là yêu nước?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để phán rằng vệ sinh là yêu nước?

Đứa nào…

Đứa đó, chính nó là tổ sư lợi dụng lòng yêu nước. 

Đứa đó:

không có yêu nước mà chỉ có lợi dụng lòng yêu nước. 

   đó là nghề và độc quyền của tổ sư. 

 “thằng” nào khác yêu nước là “thằng” đó láo! 

   “Con” nào khác yêu nước, “con” đó là đồ phản động!

Nguồn: Danlambao

Trần Trung Đạo – Cách mạng dân chủ tại Việt Nam, khoảng cách và hy vọng

In Cộng Đồng on 2012/07/04 at 15:33
Image

Huỳnh Thục Vy bị bắt ngày 1/7/2012

Trong bài thơ Giấc mơ nhỏ của tôi có một đoạn nói về sông Bến Hải và sự xa cách giữa người Việt vẫn còn đang chảy trong lòng:  

Chào anh công nhân dệt từng tấm vải

Cho tôi làm con thoi nhỏ trên tay

Để tôi nối hai bờ sông Bến Hải

Nối lòng người vời vợi cách xa nhau. 

Bài thơ viết sau 1975, nghĩa là thời gian đất nước đã “thống nhất” bằng xe tăng và đại pháo, bằng sân bắn và nhà tù. Tôi không chỉ viết ra mơ ước của mình thôi nhưng đã nhiều lần làm con thoi nhỏ. Thay vì những buổi gặp gỡ nặng về hình thức, nếu có cơ hội tôi thường mang những người một thời đã tìm đủ mọi cách để giết nhau, ngồi lại bên nhau. 

Một lần cách đây cũng khá lâu, tôi mời hai người thuộc giới cầm bút đến nhà chơi. Một nhà văn miền Bắc và một nhà văn miền Nam. Cả hai đều may mắn sống sót sau cuộc chiến. Tên tuổi hai nhà văn không nằm trong danh sách hơn hai triệu người Việt gởi xác ở Trường Sơn, Hạ Lào, Quảng Trị, An Lộc, Thường Đức, Tam Quan, Bình Giã v.v… Nếu tính theo số lượng bom đạn do Mỹ, Liên Xô và Trung Cộng cung cấp và số người chết trên một quốc gia có địa lý nhỏ hẹp, dân số không đông như hai miền Việt Nam trước 1975, chiến tranh Việt Nam có thể được xem là một trong những cuộc chiến tranh có mức độ tàn phá cao nhất trong lịch sử nhân loại. 

Chiều hôm đó, chúng tôi ngồi thành ba góc quanh chiếc bàn tròn nhỏ sau vườn. Một buổi chiều êm ả hiếm hoi của mùa hè nóng bức. Hai nhà văn tôi mời đến đều nghe tên nhau từ lâu lắm, đọc văn nhau nhưng chỉ gặp nhau hôm đó lần đầu. Họ rất ngạc nhiên khi nghe tôi giới thiệu tên. Bắt tay mừng rỡ. Những tiếng “Thì ra, thì ra…” dồn dập. Ánh mắt họ sáng lên niềm cảm động chân thành vì chẳng bao giờ họ nghĩ có ngày gặp nhau trên xứ Mỹ này. Nhà văn miền Bắc kể lại hành trình gian nan của anh từ Bắc vào Nam. Những đêm di chuyển đầy nguy hiểm, những ngày tránh bom B52 trải thảm dọc Trường Sơn. Những trường hợp thoát chết trong đường tơ kẻ tóc khi quân đội miền Nam hành quân qua khu vực anh đang trú ẩn. Nơi anh đóng là vùng tranh chấp. Ban ngày Quốc Gia, ban đêm Cộng Sản. Người dân sống dưới hai chế độ. Ban đêm khi lính rút về đồn, anh lại ra hoạt động. Dù sao anh chỉ là nhà văn, nhà báo, không trực tiếp tham dự các trận đánh lớn nên không có những tình tiết gay go hấp dẫn. 

Nhà văn miền Nam thì khác. Anh là người lính chiến dạn dày trận mạc. Anh kể lại vài trận đánh đáng nhớ mà anh từng tham dự. Có một lần tiểu đoàn của anh được trao trách nhiệm như một “cục đường để dụ kiến”. Vừa đổ quân xuống ngọn đồi không bao lâu, đào công sự chưa xong, các cuộc tấn công liên tục của phe nhà văn miền Bắc đánh vào. Mở đầu là những cơn mưa pháo. Pháo liên tu bất tận. Pháo không ngừng nghỉ. Pháo ngày đêm. Phe nhà văn miền Nam bị thiệt hại khá nặng. Anh tiểu đoàn trưởng hy sinh ngay trong trận pháo đầu. Sau vài ngày pháo kích, các đơn vị của phe nhà văn miền Bắc từng đợt tấn công. Quá đông. Tỉ lệ có thể nói là mười đánh một. Đơn vị của nhà văn miền Nam phải chọn cái sống trong cái chết, và chống đỡ là con đường duy nhất. Bằng mọi giá phải giữ ngọn đồi. Mà cho dù có muốn rút lui cũng không rút được. Cuối cùng, phe nhà văn miền Nam giữ được ngọn đồi. Như đã tính toán, sau đó, các phi đoàn mở ra hàng loạt các cuộc oanh tạc và pháo binh của phe nhà văn miền Nam tập trung bắn nát chẳng những chung quanh ngọn đồi mà cả các khu rừng bên ngoài “cục đường”. Chung quanh ngọn đồi nhỏ ngập đầy xác chết. Sau trận đánh, những chiếc xe ủi đất của công binh đào một đường mương dài, đủ sâu để khỏi hôi thối và xúc hàng trăm xác chết của phe nhà văn miền Bắc đổ vào trong đó. Phe nhà văn miền Nam cũng chẳng hơn gì. “Cục đường” đen đã chảy thành những vũng máu đỏ. Những công sự, những căn hầm bị pháo sập trở thành những ngôi mộ chôn xác đồng đội của anh. Những chiếc trực thăng tải thương hạ cánh mang theo xác anh tiểu đoàn trưởng và rất nhiều bạn bè mới chia nhau điếu thuốc hôm qua nay đã nghìn thu cách biệt. “Nếu lúc đó không giữ được ngọn đồi thì sao?” Nhà văn miền Bắc hỏi. “Thì chết hết chớ sao, cục đường mà”. Nhà văn miền Nam trả lời. Anh cười, một nụ cười mang ít nhiều chua chát. 

Nhưng rồi anh nói tiếp: “Chắc là anh nghĩ tôi lúc đó căm thù ghê gớm lắm phải không?” Có, nhưng không ghê gớm lắm đâu. Các anh bắn tôi và tôi bắn anh. Mà cho dù các anh không bắn tôi thì tôi cũng bắn các anh. Chiến tranh mà. Xong thì thôi. Lòng căm thù chế độ Cộng Sản trong tôi chỉ lên cao độ khi sống trong nhà tù Cộng Sản và chịu đựng những cực hình đày đọa, những đối xử bất nhân, những tháng ngày đói khát”

Trời sắp tối, hai anh đều có chuyện phải đi. Họ bắt tay từ giã nhau. Không ai xin lỗi ai. Không ai tha thứ ai. Nhưng qua buổi tâm sự tôi biết, họ đã hiểu nhau hơn, đã thấy được nhu cầu của một Việt Nam hôm nay và ngày mai phải thoát ra khỏi chiến tranh, nghèo đói, độc tài và đi cùng nhân loại hòa bình, ổn định, tự do và giàu mạnh. 

Không phải ai cũng có may mắn có dịp trang trải tấm lòng như nhà văn miền Bắc và nhà văn miền Nam sau vườn nhà tôi lần nọ. Đó đây vẫn còn nhiều cái nhìn khắt khe đối với những người đang tranh đấu cho tự do dân chủ với một quá khứ liên hệ với đảng Cộng Sản. Cuộc chiến quá dài, ân oán quá sâu, không phải dễ dàng gì thay đổi hết được. Người Ý, người Ba Lan khi giong buồm, nhổ neo rời cảng, họ để lại quá khứ bên bờ biển chỉ mang trên vai ước vọng về một tương lai tốt đẹp hơn cho họ và con cháu họ. Người Việt Nam thì khác. Người Việt ra đi mang theo cả cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt. Nhiều trong số chú bác anh chị đến được bến bờ tự do khi chiếc vết thương trên da thịt vẫn còn đang mưng mủ sau bao năm tháng tù đày. Xiềng xích không còn, bom đạn đã thôi rơi nhưng tiếng khua, tiếng thét như vẫn còn nghe trong giấc ngủ quê người. Thái độ, dù khắt khe, quyết liệt hay cực đoan đi nữa cũng có lý do riêng của nó. Như nhà văn miền Nam phát biểu, chính sách của đảng CSVN từ 1975 đến nay là nguyên nhân trực tiếp của sự căm thù sâu thẳm trong lòng nhân dân Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng, đối với chế độ CS và là mầm mống của sự phân hóa, chia rẽ, hoài nghi trong cộng đồng người Việt. Nhưng dù lý do gì, các chú bác anh chị vì tương lai con cháu mình, nên suy nghĩ lại và chọn những hình thức đấu tranh hữu hiệu, thích hợp với thời đại ngày nay. 

Con đường cách mạng dân chủ Việt Nam, vì thế, khác và khó khăn hơn nhiều so với con đường đã diễn ra tại Bắc Phi và tiến trình chuyển hóa dân chủ đang diễn ra tại Miến Điện. 

Điều kiện ra đời và tồn tại của chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản tại Việt Nam không giống các chế độ độc tài cá nhân như Muammar Gaddafi tại Lybia, Augusto Pinochet tại Chile, Mobutu Sese Seko tại Zaire hay độc tài phe nhóm quân sự (Junta) Miến Điện, Argentina, Peru, Nigeria, El Salvador và cũng không giống như các chế độ Cộng Sản chư hầu chùm gởi của cây đại thụ Liên Xô một thời tồn tại ở Đông Âu. 

Phần lớn các chế độ độc tài quân sự, dù cá nhân hay phe nhóm, hình thành do kết quả của các cuộc đảo chính, lật đổ các chính phủ tiền nhiệm, nhiều khi cũng rất độc tài. Cơ hội đã đưa một số sĩ quan từ vị trí của những người lính trở thành những nhà chính trị. Ngoài lòng tham lam quyền lực và địa vị, họ không sở hữu một vốn liếng chính trị và không có một sự chuẩn bị đầy đủ để lãnh đạo quốc gia. Tham vọng quyền lực của họ chỉ là tham vọng cá nhân, phe nhóm. Muammar Gaddafi của Lybia, Hosni Mubarak của Ai Cập nổi tiếng sắc máu nhưng gốc gác chỉ là những viên sĩ quan võ biền. Các quốc gia Miến Điện, Libya, Ai Cập, Tunisia cũng không trải qua cuộc chiến tranh ý thức hệ tàn khốc suốt mấy mươi năm và vai trò của các đế quốc cũng không mang tính quyết định như trong cuộc chiến Việt Nam. 

Việt Nam thì khác. Những người lãnh đạo CSVN được đào tạo để hoạt động, tổ chức, lãnh đạo chuyên nghiệp, kiên quyết theo đuổi đến cùng các mục tiêu ngắn và dài hạn của đảng CS. Chính Lê Duẩn trong tác phẩm quan trọng Dưới Lá Cờ Vẻ Vang Của Đảng, đã xác định tham vọng nhuộm đỏ Việt Nam và “đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Từ khi thành lập vào năm 1930 cho đến nay, tuy khác nhau về chiến lược của mỗi thời kỳ và hoạt động dưới nhiều tên gọi (Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng Đảng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục tiêu. 

Nạn sùng bái cá nhân dưới các chế độ độc tài không Cộng Sản có nhưng không tác hại trầm trọng đến nhận thức của người dân. Mobutu Sese Seko của Congo là một ví dụ. Nhà độc tài khát máu của Congo này sau các chuyến viếng thăm Bắc Hàn, Trung Quốc, Rumani về đã bắt chước xây dựng một bộ máy tuyên truyền giống hệt như Cộng Sản bằng cách ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10 năm 1971 thay cả tên nước. Nhưng ngay cả khi Mobutu còn sống dân Congo chẳng những không mấy quan tâm đến những thay đổi đó mà còn một cách châm biếm gọi tên y là Mobutu Sesesescu chỉ vì Mobutu là bạn thân của tên độc tài Rumani Nicholas Ceauşescu. 

Việt Nam thì khác. Giống như “cha già dân tộc” Kim Nhật Thành của Bắc Hàn, hình ảnh một “cha già dân tộc” Hồ Chí Minh đã đóng một lớp băng dày trong nhận thức của nhiều người và ngay cả được thờ chung một bàn thờ với đức Phật Thích Ca, không một phát hiện, một chứng cớ, một tài liệu khoa học nào có thể làm lay chuyển niềm tin mù quáng vào Hồ Chí Minh trong lòng những người Việt cuồng tín. Ý thức nô lệ tồn tại dưới hình thức tà đạo đó không phải chỉ trong hàng ngũ đảng viên mà cả ngay trong những người đấu tranh chống lại các sai lầm của lãnh đạo đảng. 

Về mặt lý luận, việc so sánh với hệ lý luận Cộng Sản với những lý thuyết biện minh cho sự tồn tại của các chế độ độc tài như “Sách Xanh” (Green Book) của Muammar Gaddafi hay Đường Miến Điện Dẫn Tới Chủ Nghĩa Xã Hội (The Burmese Way to Socialism) chẳng khác gì đem giáo trình đại học so với sách tập đọc lớp vỡ lòng. Tầng lớp cán bộ làm công tác tuyên truyền ở Miến Điện và Lybia chỉ là một phường nịnh hót gió chiều nào theo chiều đó. Tại Lybia trước tháng Hai 2011, với đại đa số dân chúng Sách Xanh mang tính cách giải trí nhiều hơn là lý luận. Giáo sư Vandewalle của đại học Dartmouth và tác giả của Lịch Sử Libya Hiện Đại (A History of Modern Libya) nhận xét Sách Xanh là một chuỗi những câu cách ngôn chứ không phải là một hệ lý luận thông suốt và chẳng thuyết phục được ai. Sau cách mạng dân chủ, dân chúng đốt hàng ngàn Sách Xanh không phải vì sợ “tư tưởng Muammar Gaddafi” có cơ hội hồi sinh nhưng chỉ vì đó là biểu tượng của chế độ độc tài. 

Việt Nam thì khác. Giới lãnh đạo đảng CSVN có cả kho lý luận, một bộ máy tuyên truyền tinh vi và những câu trả lời thích hợp cho từng lứa tuổi, từng ngành nghề, từng giới, từng trình độ học vấn. Nền giáo dục một chiều và phản khoa học như cây đinh đóng sâu vào ý thức của con người từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Không ít người Việt, nhất là những người luôn bắt đầu bằng câu rào đón “đừng nói là tôi bị tẩy não đấy nhé” đã bị tẩy não mà không chịu thừa nhận hay không biết mình bị tẩy não. Với họ, sự có mặt của Đảng Cộng sản trong đời sống chính trị và sinh hoạt xã hội Việt Nam tự nhiên chẳng khác gì bốn mùa xuân hạ thu đông. Họ còn tin rằng chỉ có đảng CSVN với tư cách một đảng cầm quyền, mới có khả năng dẫn dắt dân tộc Việt Nam trên con đường đi đến một tương lai tươi sáng. Họ viện dẫn trong quá khứ đảng có vài chính sách bị cấp dưới thực thi quá tả hay quá hữu nhưng về căn bản con đường đảng chọn vẫn là con đường đúng, và tham nhũng là một hiện tượng xấu của mọi xã hội đang từng bước đi lên vả lại ngay cả Anh, Mỹ, Pháp đều đầy dẫy đâu chỉ riêng tại Việt Nam. 

Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam cũng không giống như chế độ độc tài Cộng Sản tại các quốc gia Đông Âu. Mặc dù đảng Cộng Sản tại các nước Đông Âu ra đời trước thế chiến thứ hai nhưng nếu không có sự chiếm đóng của Hồng Quân Liên Xô và sự thỏa thuận của các cường quốc Anh, Mỹ, Liên Xô, sẽ không có một nhóm quốc gia Cộng Sản được gọi là Cộng Sản Đông Âu. Bản thân của định nghĩa “Cộng Sản Đông Âu” đối nghịch với khối các quốc gia dân chủ Tây Âu, vốn đã mang nặng ý nghĩa chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh nhiều hơn các ý nghĩa về văn hóa hay địa lý. 

Việt Nam thì khác. Như tôi có dịp trình bày, trong lúc các đảng Cộng Sản Đông Âu thực chất chỉ là những dây chùm gởi sống nhờ vào sức mạnh của đồng Ruble, xe tăng và hỏa tiễn Liên Xô, khi cây đại thụ Liên Xô thối ruột thì dây chùm gởi cũng khô héo theo, đảng CSVN bám sâu vào cây đại thụ Việt Nam, sinh sôi nẩy nở bằng nhựa nguyên và nhựa luyện Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển của đảng CSVN là một quá trình đầy ngộ nhận lịch sử và họ tồn tại đến ngày nay, một phần lớn cũng nhờ vào những ngộ nhận đó. Cuộc chiến thắng của đảng CSVN ngày 30-4-1975 là kết quả của cuộc lừa gạt lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. 

Không ít người Việt cho rằng sở dĩ Việt Nam không được quốc tế quan tâm đúng mức như Miến Điện, Ai Cập chỉ vì chưa có những Giải Nobel Hòa Bình như Aung San Suu Kyi của Miến Điện hay Mohamed ElBaradei của Ai Cập, nơi những tiếng nói của họ đã được chính phủ khắp thế giới lắng nghe. 

Thật ra, tại Ai Cập quê hương của Mohamed ElBaradei và Miến Điện quê hương của Aung San Suu Kyi, dù cai trị bằng bạo lực sắc máu, quyền con người trong các quốc gia độc tài quân sự không hoàn toàn bị xóa bỏ. Chế độ thông tin, kiểm duyệt còn nhiều kẻ hở. Qua các phương tiện truyền thông quốc tế, những gì xảy trong các quốc gia này đều được thế giới biết được khá rõ. Các tổ chức đối lập, chống chính phủ, công đoàn tuy bị trấn áp nhưng vẫn có cơ hội hoạt động. Đảng đối lập Liên Đoàn Toàn Quốc Vì Dân chủ (National League for Democracy, viết tắt là NLD) của bà Aung San Suukyi có cơ sở hạ tầng vững chắc và đã thắng 396 trong tổng số 485 ghế Quốc Hội trong cuộc bầu cử dân chủ công khai được quốc tế công nhận năm 1990 trước khi bị đám quân phiệt đàn áp. Các cơ sở từ trung ương đến địa phương, kể cả đại diện của chính phủ NLD cạnh các chính phủ quốc tế bên ngoài Miến Điện cũng đã duy trì các hoạt động trong suốt thời gian bà Aung San Suu Kyi bị giam giữ tại nhà. 

Thế giới đang ca ngợi bà, ngoài đức tính can đảm và kiên trì với lý tưởng tự do còn vì thái độ ôn hòa, chấp nhận đối thoại để giải quyết các vấn đề của đất nước. Tuy nhiên không phải bao giờ thái độ ôn hòa, hợp tác cũng đem lại kết quả tốt. Như có lần tôi đã viết, hòa giải hòa hợp là con đường hai chiều, không ai có thể đứng bên này sông bắt người khác phải bơi qua sông để hòa giải với mình. Trong điều kiện Miến Điện hay Việt Nam, hòa giải tùy thuộc trước hết vào chính sách và thái độ của giới cầm quyền. 

Không giống như giới lãnh đạo Miến Điện cuối cùng đã thức tỉnh, tại Việt Nam, lời kêu thương thống thiết của tầng lớp nhân dân bị áp bức suốt 37 năm qua chỉ là những viên sỏi nhỏ rơi vào biển cả, không tạo nên gợn sóng, tiếng vang nào. Với tất cả sự kính trọng dành cho bà Aung San Suu Kyi, nếu bà phải đối phó với cơ chế lãnh đạo độc tài ngoan cố như Việt Nam, có thể bà phải chọn giải pháp của đức Giám Mục Giáo Hội Anglian Desmond Tutu, Giải Nobel Hòa Bình 1984. 

Chủ trương của đức Giám Mục Giáo Hội Anglian Desmond Tutu là một bài học giá trị để đối phó chính sách ngoan cố của chế độ độc tài. Giám Mục Desmond Tutu trong cuộc đấu tranh chống Phân Biệt Chủng Tộc Nam Phi vào thời điểm khốc liệt 1976, thay vì thỏa hiệp, đàm phán, đã kêu gọi thế giới gia tăng cấm vận, tẩy chay hàng hóa Nam Phi, cô lập chính phủ Nam Phi, trừng phạt kinh tế Nam Phi càng mạnh càng tốt mặc dù điều đó có ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng lao động phần lớn là da đen. Giám Mục Tutu chống cả sáng kiến thương lượng với chính quyền da trắng Nam Phi của Tổng Thống Reagan. Khi được hỏi cấm vận và trừng phạt kinh tế chỉ làm cho dân da đen bị đói trước, ông thẳng thắn tuyên bố nhân dân Nam Phi chịu đói nhưng đói “có mục đích”. Rất nhiều quốc gia như Anh, Mỹ và công ty quốc tế hưởng ứng lời kêu gọi của đức Giám Mục. Nền kinh tế Nam Phi bị khủng hoảng. Đồng Rand của Nam Phi mất giá đến 35 phần trăm trong một thời gian ngắn. Để cứu vãn nền kinh tế, thực chất là cứu vãn gia tài, lãnh đạo chính quyền da trắng đành phải nhượng bộ. Giám Mục Desmond Tutu được trao giải Nobel Hòa Bình 1984, giải Nhân Đạo Albert Schweitzer 1986, giải Sydney Peace 1999, giải Gandhi Hòa Bình 2005, Huân Chương Tự Do Tổng Thống Hoa Kỳ 2009 và được thế giới ca ngợi nhờ vào vai trò của ông như nhân vật hàng đầu trong nỗ lực giải quyết vấn đề phân biệt chủng tộc tại Nam Phi. 

Việt Nam không thiếu những nhà đấu tranh có nhiều năm thử thách trong lao tù, có đạo đức, có lý luận, có tâm huyết nhưng chỉ vì chưa có điều kiện khách quan và chủ quan để những ánh đuốc tự do được tỏa sáng xa hơn. Các nhóm hoạt động vì dân chủ, các nhóm đối kháng với đảng CSVN gần như không có một phương tiện nào. Ngoại trừ một số ít người hoạt động dân chủ tên tuổi đang bị tù và được các cơ quan nhân quyền quốc tế được ghi nhận, hàng trăm, hàng ngàn người đang bị đe dọa thường trực, trấn áp, tù đày trong các làng xã, quận huyện xa xôi hay đang trốn tránh tại nhiều nơi trong vùng Đông Nam Á, không ai biết được, không một tổ chức nào tổng kết hết được. Sự chịu đựng trong âm thầm câm nín của các tầng lớp nhân dân Việt Nam so với nhân dân Miến Điện và các nước Bắc Phi đau đớn hơn nhiều. Những bản án dài hạn chụp lên đầu những người yêu nước khi họ chỉ vừa cất lên tiếng nói trước những bất công xã hội. Người ít và thế cô. Giãi giang sơn Việt Nam hình chữ S thực chất là một nhà tù được bao bọc bằng một bức tường bưng bít thông tin dày và một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào. 

So sánh và phân tích một số điểm khác nhau tiêu biểu giữa Việt Nam và các quốc gia khác để thấy cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ Việt Nam khó khăn và phức tạp hơn cuộc chuyển hóa dân chủ Miến và cách mạng hoa lài Bắc Phi nhiều lần. 

Đấu tranh chống lại một hệ thống cai trị tinh vi như CSVN như thế mà chúng ta chỉ chen lấn nhau trong những chỗ đứng chật hẹp, co cụm trong những mẫu số chung có tính địa phương, tôn giáo, bám víu vào những phạm trù, lý luận lỗi thời, sẽ không giải phóng được dân tộc ra khỏi chế độ Cộng Sản. 

Đảng CSVN còn thống trị nhân dân Việt Nam được, vì ngoài nhà tù sân bắn, còn nhờ vào việc gieo rắc các mầm mống phân hóa, khai thác các bất đồng không cơ bản, đào sâu thêm hố hoài nghi chia rẽ trong cộng đồng dân tộc. Nếu các thành phần dân tộc vẫn tiếp tục chống đối nhau, tiếp tục khai thác những bất đồng nhỏ nhặt, tiếp tục kéo dài những cuộc tranh luận mà cả hai bên đều biết sẽ không đi đến đâu, rồi tất cả chỉ rơi vào chiếc bẫy của đảng CS. 

Một khái niệm quen thuộc gần như nghe mỗi ngày là chính nghĩa quốc gia. Trước năm 1975, khi nghe nói đến chính nghĩa quốc gia chúng ta tự động nghĩ đến các thành phần dân tộc đang chiến đấu chống Cộng Sản và về mặt địa lý, phải sống bên bờ phía nam của sông Bến Hải. Ngày nay, nhận thức đó không còn đúng và biên giới đó không còn tồn tại nữa. Khái niệm quốc gia dân tộc hôm nay mang ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều. Đó là chỗ dựa không phải chỉ dành cho những người Việt hải ngoại mà cả đồng bào trong nước đang chịu đựng trong xích xiềng Cộng Sản, không phải chỉ những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà tất cả những ai quan tâm và dấn thân vì một Việt Nam tự do dân chủ và thịnh vượng. 

Nội lực dân tộc phải bắt đầu từ mỗi con người Việt Nam trước khi chảy chung vào dòng thác dân tộc. Cuộc biểu tình ngày 1 tháng 7 vừa qua với sự hiện diện của rất nhiều thành phần, từ thanh niên sinh viên học sinh, nông dân, công nhân đến các bậc bô lão và văn nghệ sĩ. Đó là những dấu hiệu tích cực. Họ có quá khứ khác nhau nhưng cùng được thôi thúc bằng tinh thần yêu nước, truyền thống tự chủ giống nhau. Tổng cộng số người tham dự các cuộc biểu tình từ Hà Nội đến Sài Gòn vào khoảng vài trăm nhưng có một giá trị tinh thần rất lớn. Bước chân của họ là khởi điểm cho một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để đang diễn ra tại Việt Nam. Quyền tự chủ dân tộc trong thời đại ngày nay gắn liền với dân chủ. Nói cụ thể hơn, Việt Nam không bao giờ giành lại được Hoàng Sa, Trường Sa từ tay bá quyền Trung Cộng bằng cơ chế chính trị độc tài mất lòng dân và không được quốc tế ủng hộ như chế độ CSVN hiện nay. 

Cuộc cách mạng giành độc lập của Mỹ làm thay đổi khuôn mặt thế giới suốt mấy trăm năm nay cũng chỉ bắt đầu bằng một nhóm nhỏ khoảng từ 30 đến 130 người đã can đảm ném các thùng trà của Anh xuống vịnh Boston năm 1773. Tương tự, biến cố Phá Ngục Bastille sáng ngày 14 tháng Bảy 1789 được chọn làm ngày quốc khánh Cộng Hòa Pháp không phải để giải phóng nhiều trăm hay nhiều ngàn tù nhân chính trị nhưng chỉ là hành động mang tính biểu tượng vì ngày đó nhà tù Bastille chỉ giam giữ 7 tù nhân. Các biến cố ném trà xuống biển, phá ngục Bastille hay cuộc biểu tình 1 tháng 7 vừa qua tại Việt Nam đều không phải là biến cố lớn về hình thức nhưng chuyên chở những nội dung lịch sử. Ba sự kiện có một đặc điểm giống nhau rằng cách mạng là một tiến trình không thể nào đảo ngược. Chọn lựa hôm nay, vì thế, không còn là chọn lựa của nhân dân Việt Nam mà là của giới cầm quyền.  Bài học Tunisia, Ai Cập, Libya và Miến Điện cho thấy thuận với lòng dân thì sống mà nghịch với lòng dân sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát. 

Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh có chính nghĩa và chính nghĩa luôn thắng trận cuối cùng. Từng giọt nước đã và đang được rót vào ly. Không ai biết giọt nước làm tràn ly sẽ rót xuống khi nào nhưng chắc chắn mọi người đều biết, sẽ rót xuống từ lòng dân tộc Việt Nam và thời gian không còn xa xôi nữa. Cả hơn 700 tờ báo đảng, dĩ nhiên không cùng hô đả đảo Trung Quốc xâm lăng trên trang nhất nhưng cũng không dám chỉ trích, không xám xúc phạm bởi vì đảng biết những bước chân trên đường phố Sài Gòn, Hà Nội hôm kia là những bước chân từ khát vọng thiêng liêng và trong sáng. 

Ước mơ của hai người lính, hai nhà văn miền Bắc và miền Nam mong được thấy các thế hệ Việt Nam tương lai được sống trong hòa bình, ổn định sẽ thành sự thật. Tổ tiên chúng ta đã làm được, ông bà chúng ta đã làm được và rồi chúng ta, con cháu của các ngài, cũng sẽ làm được. Con tàu rộng thênh thang và mỗi ngày được nối thêm nhiều toa mới, đủ chỗ cho mọi người có tâm huyết hướng về cùng điểm hẹn tự do, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng cho Việt Nam mãi mãi về sau.

Trần Trung Đạo

Nguồn: Facebook Trần Trung Đạo

 

CĐCM CLGT (*)

In Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2012/05/27 at 09:19


 “Tôi khóc những chân trời không có người bay 

Lại khóc những người bay không có chân trời”

Trần Dần

Không phải ngẫu nhiên mà bác Cao viết Chí Phèo. Cũng không phải ngẫu nhiên mà bác Tố tả chị Dậu. Càng không phải ngẫu nhiên mà bác Duy hát mười bài Tục ca. Mọi thứ đều có nguyên do của nó cả.

Có những đứa cho rằng tao vẽ biếm như chửi tục. Vẽ như bọn đầu đường xó chợ. Vẽ như quân phản động bán nước. Chúng không mảy may nghĩ rằng những bọn ấy còn khướt mới vẽ được như tao. Chúng còn đi xa đến mức cho rằng tao không có “đạo đức nghề nghiệp của thằng vẽ biếm họa”. Ha ha ha. Chả nhẽ đạo đức lại thuộc về lũ tôm tép đang hí hoáy mấy thứ nhạt toẹt trên Tuổi Trẻ Cười? Rõ một lũ linh cẩu không bao giờ thôi lo lắng cho người khác về việc làm thế nào để thành Người.

Lại có những thằng vu tao thù Cộng Sản. Hô hô hô. Tao đâu có rảnh đến mức đi thù một thứ không có thực? Tao chỉ thù những thứ đang sờ sờ trước mắt: những kẻ gieo rắc sợ hãi, những tên kẻ cướp, quân xảo trá, lũ giòi bọ sống bằng mồ hôi nước mắt, bằng máu, bằng sự u mê ngu muội của người khác. Ô, thế hóa ra quân ấy là Cộng Sản à? Có khổ thân ông Mác không cơ chứ!

Ai muốn nghe những điều nghịch nhĩ? Chính tao cũng không. Ồ có những lúc tao nghĩ tao đã làm ra được những bài thơ đẹp nhất trên đời. Nhưng đấy ko phải là lúc tao viết hay vẽ về chúng mày. Các cụ đã dạy thế nào? Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Thực tình, tao thích nhất là không mặc gì. Những gì chúng mày đang nhìn vào và thấy khó chịu, thực ra là của chúng mày cả. Bao nhiêu là văn hóa, bao nhiêu là đạo đức, tao trả hết cho chúng mày. Thích nhé!

Lại có bạn bảo sao tôi không viết vẽ cái gì đẹp, cái gì tinh tế, cái gì sâu sắc. Bạn mến, xin hãy cho tôi được, dù chỉ một lúc ngắn ngủi thôi, đủ tuyệt vọng để ngửa mặt lên trời mà chửi.

Cụ Dần làm thơ hay như thế, có bị tù ngục đày đọa không? Anh Vũ viết kịch hay như thế, có bị chết không rõ nguyên nhân không? Anh Vươn làm lụng vất vả nhẫn nhịn như thế, có bị cướp trắng giữa ban ngày không? Và còn bao nhiêu triệu con người trên cái dải đất chữ S cong oằn như con giun nữa, ai cho chúng ta lương thiện?

Tinh tế để cho ai xem? Sâu sắc để cho ai hiểu? Chắc chắn không phải lũ lợn con đang cắm đầu vào hàng game và phim sex rồi. Chắc chắn không phải lũ heo con áo quần xúng xính, mắt xanh mỏ đỏ đang dắt díu nhau vào nhà nghỉ rồi. Cũng chẳng phải đám sinh viên èo uột đang lờ đờ ngồi đợi điểm danh. Cũng chẳng phải lũ công chức an phận cuống cuồng lo giá tăng, lương giảm, chạy trường chạy lớp cho con. Cũng chẳng phải lũ trọc phú bơi trong tiền, lũ anh chị ngập trong máu. Cũng chẳng phải lũ bằng cấp nước ngoài, có học thức, có địa vị, suốt ngày lên kế hoạch xem đi du lịch ở đâu, ăn ở nhà hàng nào. Cũng chẳng phải bác nông dân đang kéo cày thay trâu, đang thồ hàng thay ngựa. Chẳng phải những ai chỉ có mỗi TV và báo chí để xem để đọc. Chẳng phải những kẻ đéo có nổi một tấm lòng để quan tâm đến bất cứ cái gì ngoài bản thân mình. Viết hay vẽ ra cái gì đẹp, để cho ai?

Tao ỉa phẹt, vào tất cả chúng mày.

Tao ỉa phẹt, vào những thằng bịt mắt, bịt tai, bịt mồm. Ồ đến con chó còn có mắt để nhìn, có tai để nghe, có mồm để sủa. Lại còn có mũi đến hít để ngửi. Rõ là chúng mày thua đứt.

Tao ỉa phẹt vào những đứa nói mà không làm, đã đành. Tao lại cũng ỉa phẹt, vào những đứa làm mà không nói. Không nói thì ai biết đấy là đâu? Những thằng ngu không nói thì ai biết là ngu đến mức nào? Những thằng giỏi không nói thì ai biết đường mà học theo? Đến ông Phật còn nói ra rả, chúng mày định thi im lặng với ai?

Tao ỉa phẹt, vào tất cả sự khéo léo. Lịch sự, nhũn nhặn, dĩ hòa vi quý. Ra vẻ hiểu đời, ra vẻ biết cách sống. Lũ bộ tịch đáng tởm! Quân đạo đức giả, một đống mặt nạ! Hãy bóc lớp mặt nạ nhoe nhoét tã tượi ra, rồi nói chuyện phải trái với nhau, nói chuyện xấu đẹp với nhau. Hay mặt nạ đã dính quá chặt rồi? Hay bóc ra thì chẳng còn gì bên trong cả, ngoài mớ nhầy nhụa lưu cữu của sợ hãi?

Tao ỉa phẹt vào Khổng Tử đã đành. Tao lại cũng ỉa phẹt, vào Lão Tử. Cái gì mà vô vi, cái gì mà nước chảy. Riêng việc nhắc đến vua thế nào, dân làm sao là đã thấy khó ngửi và không tưởng rồi. Thôi hãy cưỡi trâu đi cho khuất mắt.

Đừng bao giờ so tao với các diễn đàn, đừng đặt tao vào lề trái hay phải. Tao ỉa phẹt vào các loại bầy đàn, các loại lề lối. Tao không đi theo ai, cũng không dẫn ai đi theo mình. Nếu có người đồng ý với những gì tao nói, ấy chỉ là trùng hợp. Nếu có kẻ không đồng ý với tao, ấy là chuyện bình thường.

Tao ỉa phẹt vào những gì giả dối, những gì hời hợt. Như thế cũng có nghĩa, bất cứ lúc nào tao giả dối hoặc hời hợt, tao sẵn sàng ỉa phẹt, vào chính mình. Phải lắm, cái thân tao thì có sá gì. Bao nhiêu cứt, mà chẳng được. Tao sẵn sàng hít ngửi, sẵn sàng ngồi đó mà suy nghĩ về tất cả những lỗi lầm của bản thân mình. Rồi tao lại đứng dậy rửa sạch, và tao sẽ lại cặm cụi ỉa phẹt, vào tất cả chúng mày.

Ngày xưa nghe Chí Phèo chửi, cả làng Vũ Đại ai cũng nghĩ chắc nó chừa mình ra. Bây giờ chắc vẫn vậy. Nhưng đừng nhầm, thực ra anh Chí chẳng chừa ai bao giờ.

_______________________

(*) Nghĩa ít phổ biến: Con Đường Cách Mạng Còn Lắm Gian Truân

Nguồn: Biếm họa Việt Nam | Editorial Cartoons