vietsoul21

Archive for Tháng Năm, 2011|Monthly archive page

Kể chuyện ngày “bầu cử” 22-5-2011

In Chính trị (Politics), Việt Nam on 2011/05/25 at 13:36
BBT: Bầu cử là một hành động chính trị “Công Dân”. Đi bầu hoặc không đi bầu là một động thái chính trị. Khi nhà cầm quyền Đảng CSVN đã tước quyền ứng cử và bầu cử độc lập, dân chủ thì bầu cử chỉ là trò hề bôi lọ cái mặt gian trá của chế độ. Tẩy chay không đi bầu là một hành động phản kháng chế độ độc tài Đảng CSVN.

 
 
Để chuẩn bị cho ngày “bầu cử” 22-5-2011 VC đã có những kế hoạch chi tiết để đối phó với khả năng sẽ có một cuộc tẩy chay rộng khắp của cử tri cả nước, nhất là những nhà dân chủ. Tôi và các cháu Thục Vy và Trọng Hiếu là một trong rất nhiều đối tượng của nhà cầm quyền.

Ngày 16/5/2011 An ninh tỉnh Quảng Nam đã phái ông Trần Kim Cầu đến nhà tôi để thông báo về ngày bầu cử “Quốc hội” và cho tôi biết là đơn vị mà tôi phải đi bầu là khối phố Bàn Thạch phường Hòa Hương. Ông Trần Kim Cầu là khối phố trưởng cũng là ứng cử viên Hội đồng nhân dân phường Hòa Hương kiêm thành viên tổ bầu cử.

Ngày 18/5/2011ông TKC giao thẻ cử tri cho tôi và những người trong gia đình. 18h chiều ngày 21/5 ông gọi điện đến nhà tôi để “nhắc nhở” là ngày mai nên đi bầu sớm “cho mát”.

8h30 sáng, ngày 22-5-2011 ông TKC gọi điện cho tôi yêu cầu tôi đi bầu cử. Tôi trả lời cho ông rõ lập trường của tôi là không đi và giải thích thêm lý do tôi không đi. Tôi nói với ông:

-“Đây là một cuộc bầu cử không đúng với tinh thần Dân chủ. Một cuộc bầu cử độc diễn của Đảng CS. Tôi và người dân có đi bầu hay không cũng không thay đổi kết quả của cuộc bầu cử. Chẳng qua Đảng CS dùng người dân chúng tôi để tuyên truyền cho họ, xác lập tính chính danh cho một việc làm bất chính, xác lập tính hợp pháp cho một quốc hội bất hợp pháp. Tôi và các cháu Huỳnh Thục Vy, Huỳnh Trọng Hiếu không đi bầu là một cách hành xử quyền hạn của một cử tri, một công dân VN đối với những vấn đề hệ trọng của đất nước. Không đi bầu cũng là một cách mà tôi và các cháu thể hiện “nghĩa vụ” tinh thần của mình với tư cách một công dân”.

Đến 13h30 chiều ngày 22-5 ông TKC lại gọi điện đến nhà tôi một lần nữa hối thúc tôi đi bầu cử. Tôi trả lời với ông như lần trước nhưng ngắn gọn hơn rồi cắt máy.

CSVN vẫn ba hoa với nhân dân VN và cộng đồng Quốc tế, là bầu cử tại VN là “Quyền” được Hiến pháp và Luật pháp minh định, mà đã là “quyền” thì người có quyền đó được quyết định lựa chọn đi bầu hay không đi bầu. Vậy mà họ vẫn dùng đến những thủ đoạn để người dân phải thực hiện cái “quyền” đó bằng cách gây áp lực – khủng bố tinh thần như cho công an và quân đội đến nhà để “nhắc nhở”.

– Lúc 9h30 ngày 22/5, một người là Nguyễn anh Quốc, trưởng CA xã Tam Phú, một người nữa mà tôi không biết tên là xã đội trưởng Tam Phú đến để “nhắc nhở” gia đình tôi đi bầu và nếu có ai là khách vãng lai đến nhà thì cũng phải đi bầu.

“Nhắc nhở” người dân đi bầu mà phải dùng đến công an và quân đội thì thật là quá “chu đáo”, cho thấy người dân VN sống trong chế độ XHCN, một chế độ “Dân chủ triệu lần hơn các nước phương tây dân chủ”, đã hành xử “quyền” bầu cử của mình dưới sự kiểm soát của chính quyền, dưới chiếc còng và họng súng của CA và quân đội VN.

– 15h chiều ngày 22-5, bà Liên người phụ trách công tác phụ nữ và cho vay tiền dành cho sinh viên của phường Hòa Hương, gọi điện đến nhà tôi thúc giục tôi và các cháu đi bầu và được cô em gái của tôi trả lời dứt khoát là không đi bầu. Gia đình tôi không phải là những người dân “thấp cổ bé miệng” như những người dân khác và ít ra chúng tôi cũng có hiểu biết căn bản về Pháp luật, về những quyền công dân được minh định trong Hiến pháp. Hơn nữa chúng tôi biết và “dám” lên tiếng tự bênh vực và bảo vệ mình qua hệ thống thông tin đại chúng “lề trái”. Gia đình chúng tôi không phải hoàn toàn đơn độc vì chúng tôi có được sự yêu mến của cộng đồng VN trong nước và Hải ngoại, vậy mà họ còn áp lực với chúng tôi như vậy (một áp lực ngang tầm và hoàn toàn có thể gọi là một cuộc khủng bố tinh thần), huống hồ gì người dân vừa không có kiến thức về pháp luật, vừa đơn độc.

30 phút sau – lúc 15h33 phút ngày 22/5/2011 (được ghi lại trên điện thoại của tôi) ông TKC lại gọi điện cho tôi yêu cầu tôi về Tam Kỳ bỏ phiếu. Tôi lại phải trả lời ông là tôi không đi bầu, nhưng tôi không thể không bực mình và gằn giọng vì họ cứ hết người này đến người khác gây áp lực, khủng bố tôi và gia đình phải thực hiện cái “quyền” của chúng tôi.

Ông TKC bảo tôi về bầu cử nếu không đi bầu thì ông sẽ xuống nhà tôi để thu lại ba thẻ cử tri của tôi, Thục Vy và Trọng Hiếu.

Tôi trả lời ông ta với sự bất bình:

– Anh có biết việc chính quyền thu lại thẻ cử tri của chúng tôi là bất hợp pháp không? Chúng tôi là công dân VN hợp pháp và đủ tư cách bầu cử và ứng cử. Việc chúng tôi có thẻ cử tri là việc đương nhiên và hợp pháp. Còn việc chúng tôi hành xử quyền của một cử tri như thế nào là quyền của chúng tôi, nó được Hiến pháp qui định.

Ông Trần Kim Cầu làm việc này là do chỉ thị của CA Quảng nam (từ trước đến nay những việc liên quan đến gia đình tôi đều do An ninh tỉnh Quảng nam trực tiếp chỉ đạo), cá nhân ông ta chỉ là tay sai, đâu dám to gan đến thế.

CSVN muốn thu hồi thẻ cử tri của ba bố con tôi là họ muốn tước quyền công dân của chúng tôi. Việc này đâu có dễ như thế! Phải có một phiên tòa để quyết định nếu CSVN muốn làm điều đó. Theo sự phán đoán của tôi, họ còn có mục tiêu khác: Nếu thu hồi được thẻ cử tri của chúng tôi họ sẽ tự động đóng dấu vào thẻ cử tri để chứng minh với công luận là chúng tôi đã đi bầu. Đây là cách họ hạ nhục chúng tôi nếu họ thấy cần thiết.

Qua trường hợp cụ thể của mình, tôi thấy cuộc “bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp” ngày 22/5 vừa qua cũng như các kỳ bầu cử trước đây, CSVN đã thực hiện nó trong bầu không khí khủng bố người dân.

Ngày 22/5/2011 vừa qua đối với gia đình chúng tôi là một ngày căng thẳng, nặng nề. Vì chúng tôi phải chịu một áp lực ghê gớm. Nhưng chúng tôi vẫn kiên quyết bảo vệ quyền của mình được qui định trong Hiến pháp và chúng tôi đã thực hiện quyền công dân của mình bằng cách trả lời “Không” với cuộc bầu cử trò hề, giả danh dân chủ. Chúng tôi biết con đường trước mắt chúng tôi đầy khó khăn và nguy hiểm nhưng chúng tôi quyết định đồng hành cùng dân tộc đến đích cuối cùng là Tự do và Dân chủ cho VN.

Tôi biết hiện nay có nhiều kịch bản đang xây dựng nhắm vào gia đình chúng tôi, nhằm mục tiêu triệt hạ tôi và các cháu, nhưng tôi cũng biết rằng thời đại ngày nay với sự sụp đổ tất yếu của các chế độ độc tài, CSVN không dễ dàng thực hiện tội ác mà không bị trừng trị. Dân chủ và pháp luật đang được thực hiện trên khắp thế giới.

© Huỳnh Ngọc Tuấn
© Đàn Chim Việt (http://www.danchimviet.info/archives/35244)

PHÙNG GIA LỘC – Cái đêm hôm ấy… đêm gì?

In Văn Chương on 2011/05/21 at 08:29
BBT: Năm 1993 chúng tôi về Việt Nam và được một người bạn tặng quyển truyện “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?” của Phùng Gia Lộc. Anh ấy kể rằng tác phẩm này tạo nhiều dư luận trong xã hội. Đói không phải là một điều lạ nhưng cách hành xử của cán bộ, kẻ cầm quyền trong chính sách thô bạo dã man mới là một cú choáng với mọi người. Bao nhiêu năm đã qua và dân Thanh Hóa vẫn đói … đói … và đói …

 

Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều chủ nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:

– Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.

– Hừ! Lại thế nữa…

Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?

Sáng thứ hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:

– Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.

Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành “phó thường dân”. “Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được”. Quang lắc đầu bảo thế.

Anh gạn tôi:

– Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.

Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:

– Phải mang “hàng chiến lược” này về chứ.

Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì…

Có cái “các” quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học – thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.

Thấy tôi về thằng Thức reo lên:

– A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?

– Có cái rét cóng đây này!

Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:

– Ứng được năm cân gạo.

Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:

– Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!

Tôi hỏi:

– Nhà ăn rồi hả mẹ?

Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:

– Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.

Tôi thấy cay sè trong mắt.

– Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?

Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:

– Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên…

Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:

– Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.

Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.

– Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.

– Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà…

Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà… thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau… Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.

Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:

– Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?

– À… mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.

Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện “bí mật nội bộ”. Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm “đồng khởi” thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:

– Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi

– Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.

Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.

Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ…

Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:

– Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?

Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:

– Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!

Tôi vỗ về:

– Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?

– Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.

– Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.

Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:

– Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời…

Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.

– Ngủ đây mà ấm, bố ạ!

Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.

Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.

Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp…

Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực.

Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý.

Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.

Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.

– Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!

Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.

Cạch cạch cạch.

– Chị cò Lộc, mở cửa ra!

Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.

– Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?

– Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.

Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh… bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm “hộ pháp” là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.

Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp ngay!

Bà cụ tôi đáp thay con dâu:

– Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?

– Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?

Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo:

– Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.

Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.

Anh Miện bảo nhỏ tôi:

– Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.

Tôi đang định nói: “Đã không có thóc thì làm cóc gì có tiền”, nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:

– Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi… “Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước”. Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.

Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà… để ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)… Mấy con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu “hấp bồ”, “hấp bồ”…

Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:

– Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.

Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.

– Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?

– Bắt cái xe đạp ni, bay!

Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:

– Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được đâu.

– Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?

Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái “thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh” ra, tôi nói:

– Tôi phản đối! Tôi là “nhà báo”! Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.

Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.

Chợt vị “hộ pháp” nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:

– Cái gì trong này, chị Lộc?

Im lặng…

– Cái gì trong này, chị nói mau?

Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.

– Có cái gì đâu…

Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:

– A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.

Mẹ tôi chống gậy vái dài:

– Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.

Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành “hôm sau” cho bà.

Bà cụ nói như rên rẩm:

– Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!

Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:

– Chị có gánh đi hay không thì bảo?

Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:

– Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.

Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.

– Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!

– Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!

Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:

– Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.

Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.

– Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi… Trông xuống mà coi…

Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:

– Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!

Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp…

Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.

Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.

Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?”.

PHÙNG GIA LỘC – Cuối năm 1987

Theo Báo Văn Nghệ

Nguồn: Blog DCNQCVN

Nguyễn Thị Từ Huy – Nhật ký ngày 12/5/2011

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Việt Nam on 2011/05/13 at 14:09

Sáng nay vị cán bộ quản lý đó lại gọi cho tôi. Ông nói rằng ông mệt mỏi quá, vì bên công an lại đề nghị ông phải làm việc với tôi. Ông nói rằng tôi phải viết một cái đơn gửi lên trường trong đó nói rõ rằng tôi đã ký vào Kiến nghị trả tự do cho Cù Huy Hà Vũ. Tôi trả lời ông là tôi không hiểu tại sao tôi lại phải viết cái đơn đó. Và tại sao lại phải gửi cho trường, vì trường không liên quan gì đến việc này cả. Tôi suy nghĩ và suy nghĩ, và cuối cùng cũng vẫn không hiểu được. Tôi từ chối gặp ông, vì trong tư cách một người làm khoa học, tôi không muốn làm việc gì trái với nguyên tắc. Và tôi hiểu mọi việc chưa dừng lại ở đây. Còn đi tới đâu thì tôi không biết. Nhưng tôi không có gì phải sợ hãi. Tôi không làm gì sai, tôi không làm gì vi phạm pháp luật.

Tại sao không được phép làm điều đúng? Tại sao không được phép làm điều tốt?

Có lẽ chú Phạm Toàn nói đúng, rằng cuộc sống vẫn nói to với ta là không thể ảo tưởng, rằng hình như xung quanh ta, mọi thứ đang có màu máu và mùi vị thuốc súng.

Tuy nhiên, chú Toàn ơi, cháu vẫn phải tiếp tục ảo tưởng, vì cháu không thể nghĩ rằng ta đang tồn tại không phải giữa những con người, rằng ta đang tồn tại cùng với những kẻ đã mất hết tính người. Chú có nhắc đến Javert, thật là hay. Đó là một ví dụ rất đẹp trong văn chương cho thấy rằng tính người là một cái gì rất khó hủy diệt. Sắt đá và máy móc trước pháp luật đến như cảnh sát Javert mà cuối cùng đã chọn cái chết. Tất cả chúng ta còn nhớ rằng chính Javert đã tự tử sau khi tha cho Jean Valjean, kẻ mà hắn đã theo đuổi suốt đời mới bắt được. Tác giả không phân tích một lời nào về tâm lý nhân vật, không nói một lời nào về việc tại sao nhân vật tự tử. Độc giả không được giải thích vì sao Javert tự chọn cho mình cái chết. Nhưng độc giả hoàn toàn hiểu rằng, cái chết của Javert chính là sự chiến thắng của nhân tính.

Tất nhiên, chỉ có nhân vật văn học mới chết thôi. Chúng ta không cần ai phải chết, chúng ta chỉ hy vọng lòng nhân có thể chiến thắng sự phi nhân.

Tuyệt đối ngây thơ, tôi tin rằng những người đang gây áp lực cho trường tôi, những người đang muốn tôi phải sợ hãi, hoặc có thể muốn cả những điều mà tôi không biết, họ cũng là những con người, họ cũng có một bộ óc để nhận thức điều sai đúng và họ cũng có một trái tim người để xúc động và để hướng dẫn hành động của họ.

Tôi vẫn tin như vậy, dù tôi có phải trả giá cho niềm tin của mình.

N. T. T. H.

Nguồn bauxitevn

Ngày Nhân quyền Việt Nam 2011

In Chính trị (Politics), Thế giới, Việt Nam on 2011/05/12 at 14:06

 



Nguyễn Thị Từ Huy – Nhật ký ngày 9/5/2011

In Cộng Đồng, Liên Kết on 2011/05/11 at 12:45
Nguyễn Thị Từ Huy
 

Từ Huy yêu quý,

Chú đọc một hơi “nhật ký” ngày 9 của Từ Huy. Đọc được hai phần ba thì nức nở một mình. Sau đó thì phải lau mắt vài lần để đọc cho hết bài. Cám ơn Từ Huy đã cho chú đọc trước khi chuyển BVN.

Hy vọng những ai đọc bài này với mục đích xa lạ, những ai đọc không để đồng cảm mà chỉ cốt vạch lá tìm sâu, cách đọc của những ai đang theo dõi Từ Huy, những ai đang tự xếp mình vào một chiến lũy đối địch với Từ Huy cùng những tâm hồn như Từ Huy, hy vọng rằng các “tay súng” đó sẽ NGỘ ra cái thông điệp gửi trong những dòng nhật ký này.

Đất nước này đang bị chia rẽ sâu sắc. Không chỉ là sự chia rẽ giàu nghèo. Mà đang có sự chia rẽ vô cùng lớn về văn hóa. Có mấy người trong đội ngũ những chú Javert sẽ hiểu nổi và đồng cảm nổi với những dòng nhật ký của một cô gái luôn luôn bé bỏng, mặc dù đã có trong tay những công trình triết học và văn học của cô đáng để những ai thèm khát văn bằng phải nản lòng.

Chú cũng thấy mình được Từ Huy ngấm ngầm khuyên không nên bi quan và hãy tin vào phần tốt đẹp của con người. Về lý trí, chú vẫn muốn được như thế lắm! Nhưng cuộc sống vẫn đang nói to với chú là ta chớ nên vấn vương với ảo tưởng. Chú chỉ lo những kẻ nghèo trí tưởng tượng đã làm cho nền văn hóa Việt Nam đồi trụy đi sẽ tiếp tục trổ tài để định nghĩa văn hóa theo cách của họ, như thể chỉ là những gì mang màu của máu và mùi vị thuốc súng.

Dẫu sao, cháu vẫn làm chú không hết ngưỡng mộ cháu.

Phạm Toàn

Chiều nay tôi gặp một vị cán bộ quản lý của trường nơi tôi làm việc, do trước đó ông có gọi điện và hẹn gặp tôi. Ông rất nhã nhặn và tỏ ra lúng túng khi bắt đầu câu chuyện. Rút cục thì ông cũng nói rằng chuyện liên quan đến việc ký vào bản kiến nghị trả tự do cho Cù Huy Hà Vũ, rằng công an đã gọi điện đến và yêu cầu ông kiểm tra xem tôi có ký hay không. Tôi nói rằng tên tôi có trong bản danh sách, chuyện đó kiểm tra rất dễ, sao còn làm phiền ông. Và tôi xin lỗi ông vì lẽ ra họ phải gọi trực tiếp cho tôi, vì việc ký kiến nghị là một lựa chọn cá nhân, là quyết định của cá nhân tôi, không liên quan gì đến trường. Trường chỉ quản lý tôi về phương diện công việc. Còn mọi hoạt động khác của tôi ngoài phạm vi cơ quan, tôi phải chịu trách nhiệm, vì tôi là một công dân có đủ quyền công dân, và có đủ các trách nhiệm và nghĩa vụ của một công dân. Họ đã làm phiền ông, đã làm mất thời gian của ông, tôi thực sự áy náy vì điều đó. Tôi còn áy náy với ông hơn vì việc làm của tôi không vi phạm pháp luật, không vi phạm đạo đức cá nhân, cũng không vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thế mà lại khiến ông phải mất thời gian quý báu của ông cho tôi. Thời gian đó đáng lẽ phải được dành cho các hoạt động chuyên môn của ông, đáng lẽ phải được dành cho các công việc vốn rất bận rộn của trường. Sau đó, chúng tôi nói chuyện với nhau về những nỗi khổ tâm của các trí thức. Trí thức, từ xưa đến nay, muôn đời đều có những khổ tâm đặc thù của họ. Chúng tôi nói chuyện về Marx, về các lý tưởng và mơ ước của Marx. Rút cục thì có vẻ như thời gian của cuộc gặp gỡ cũng không đến nỗi vô ích.

Một vài người xung quanh nói rằng vì việc ký bản kiến nghị mà có thể tôi bị theo dõi. Tại sao lại theo dõi một người như tôi? Một người không bao giờ làm hại ai (mà cũng không đủ khả năng làm hại ai, một phụ nữ đơn độc, chân yếu tay mềm). Một người đang cố gắng thực hiện truyền thống của một gia đình công dân bình thường nhưng không tầm thường. Cụ nội tôi là chánh tổng Lai Thạch nhưng vì ủng hộ cách mạng nên bị cách chức; và cụ đã tự vẫn, tự quyết định số phận theo ý mình, không chịu rơi vào tay thực dân Pháp. Một người con của cụ là ông Nguyễn Huy Lung, một nhân vật có ảnh hưởng quan trọng trong phong trào 30-31 ở Nghệ Tĩnh, bị bắt giam tháng 12/1930. Do các ảnh hưởng và hoạt động của ông ở trong tù, nên Pháp đã liên tục thuyên chuyển ông từ nhà lao Hà Tĩnh vào nhà lao Đồng Hới rồi vào Kon Tum. Ở đó, tháng 12/1931, ông bị bắn chết khi cùng anh em tù phản đối bị chuyển đi Dak Pek. Một người con khác của cụ là ông nội tôi, cũng là đảng viên 30-31, khi nhận được công văn của tổ chức, không một phút chần chừ, đã đem các con nhỏ gửi cho anh em (bà nội tôi, vốn cũng bị tù đày trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, lúc đó đã mất), gửi lại nhà cửa, vườn ruộng, đi sang hoạt động ở vùng khác theo sự điều động của cách mạng. Ba tôi, vì lý tưởng, đã bỏ công việc ở ngân hàng, vốn rất ổn định và đảm bảo, lên Điện Biên tìm hiểu thực tế, tham gia vào đời sống và tìm cảm hứng sáng tạo. Và sau này, khi đất đai trở thành đối tượng của sự tham nhũng hoặc là bằng chứng của một kiểu ân huệ, ông đã từ chối không nhận mảnh đất do cơ quan cấp.

Gia đình tôi không có gì đặc biệt hơn những gia đình Việt Nam khác. Và chúng tôi cũng có một truyền thống như bao gia đình Việt Nam khác. Truyền thống đó cần phải được tiếp nối, dưới hình thức này hay hình thức khác. Cuộc sống luôn có những lựa chọn khác nhau. Tôi tin rằng tổ tiên của tôi sẽ ủng hộ lựa chọn của tôi hiện nay. Tôi đã lựa chọn ba triệu đồng một tháng (đấy là số tiền công lao động hàng tháng hiện nay được chuyển vào tài khoản của tôi) để làm công việc mà tôi cho là có ích, thay vì tìm một công việc được trả thù lao xứng đáng với bằng cấp, với trình độ và với nhân phẩm của tôi. Tôi, và những viên chức như tôi, không nợ nần gì ai cả, không ăn cơm của ai cả. Chúng tôi được trả một đồng lương không xứng đáng với những gì mà chúng tôi cống hiến, không xứng đáng với thân phận người của chúng tôi. Để sống chúng tôi phải bán sức lao động để làm nhiều việc khác. Tổ tiên của tôi hiểu rằng tôi chấp nhận trả giá để thực hiện công việc mà tôi cho là có ý nghĩa với các thế hệ sau. Đó cũng là một cách để tiếp nối truyền thống gia đình.

Ký vào kiến nghị trả tự do cho Cù Huy Hà Vũ là việc tối thiểu mà một trí thức có thể làm. Có thể cụ nội tôi, ông nội tôi hay ông Nguyễn Huy Lung sẽ thất vọng về tôi, thất vọng vì tôi có thể làm nhiều điều hơn thế mà tôi chỉ làm được cái điều tối thiểu. Nhưng có lẽ tổ tiên cha ông tôi cũng thất vọng nếu vì hành vi đúng đắn đó mà tôi bị nghi kỵ, bị theo dõi. Và họ còn tủi hổ hơn nếu tôi cảm thấy sợ hãi vì việc làm đúng của mình.

Tại sao làm điều đúng lại phải sợ? Tại sao làm điều tốt lại phải sợ?

Xã hội này có phải đã mất hết ý thức về các giá trị làm người rồi không, mất hết ý thức về các giá trị nhân đạo rồi không, mất hết ý thức về công lý, lẽ phải rồi không? Không, tôi không tin là như vậy. Tôi không tin là những người làm nhiệm vụ theo dõi đã mất hết tính người, chỉ còn biết hoạt động như những công cụ, như những cỗ máy. Tôi đã xem một bộ phim của Đức: Cuộc sống của những người khác (The lives of the others). Bộ phim đạt giải phim nói tiếng nước ngoài hay nhất Oscar 2007, phim hay nhất châu Âu 2006, phim hay nhất nước Đức 2006.

Một trong các nhân vật chính của bộ phim đó là Wiesler, nhân viên an ninh, làm công việc theo dõi những người có tinh thần tiến bộ. Và từ một kẻ lạnh lùng, sắt đá, chỉ biết có yêu cầu của công việc và thực hiện răm rắp nghĩa vụ với những kỹ năng thuần thục, chuyên nghiệp, quá trình theo dõi đã biến nhân vật thành một người có cảm xúc và biết phân biệt những gì là nhân văn với những gì là phi nhân, phân biệt được cái gì là thiện và cái gì là ác. Kết cục là anh ta đã giúp đỡ những người bị anh ta theo dõi, và bản thân anh ta thì bị cách chức, đuổi việc. Bộ phim có một kết thúc rất đẹp: sau ngày bức tường Berlin sụp đổ, nhân vật bị theo dõi đã vào viện lưu trữ tìm lại những tài liệu về quãng đời cũ của mình, và tình cờ phát hiện ra rằng người theo dõi đã cứu sống anh ta. Anh ta dò hỏi và tìm được địa chỉ của người ấy, giờ đây đang làm nghề đưa thư. Anh ta ngồi trong ô tô từ xa nhìn ân nhân của mình trên chiếc xe đạp chở đầy thư, bưu kiện. Anh ngập ngừng rồi quay đi, không đến gặp ông ấy nữa. Một thời gian sau, người đưa thư đi qua hiệu sách nhìn thấy áp phích quảng cáo cuốn sách mới của nhà văn Dreyman, người ông ta từng theo dõi nên biết rất rõ. Ông ta bước vào hiệu sách, cầm cuốn tiểu thuyết của Dreyman có nhan đề Bản sonate của những người tốt. Ông mở ra và đọc được lời đề tặng dành cho mã số: HGW XX/7. Đấy chính là mã số của ông hồi còn là nhân viên an ninh. Khi ông ta mua cuốn sách, người bán hàng hỏi ông có muốn gói quà không, ông trả lời: “Không, nó dành tặng tôi”.

Cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn không phải chỉ nhờ việc những người đấu tranh cho chính nghĩa và cho các giá trị tốt đẹp biết hy sinh, mà còn nhờ việc những người chống lại chính nghĩa và chống lại các giá trị tiến bộ biết nhận ra rằng họ cần ủng hộ lẽ phải. Và nghệ thuật đích thực bảo vệ nhân tính, phát hiện nhân tính kể cả ở những nơi, những lúc, ở những người tưởng như không còn nhân tính.

Nếu giả sử (chỉ là giả sử mà thôi) có ai đó theo dõi tôi thì tôi tin rằng người đó cũng sẽ chuyển biến theo chiều hướng như vậy. Tôi tin ở các giá trị mà tôi đang cố gìn giữ và xây dựng. Tôi tin rằng lương tri và tính thiện có sức cảm hóa. Người Việt Nam là người, trước khi là người Việt Nam. Tức là chúng ta cũng mang các giá trị phổ quát của nhân loại. Chúng ta có bộ óc để nhận thức, để nhận biết lẽ phải, chúng ta có trái tim để biết xúc động, biết yêu quý những gì cần yêu quý và căm ghét những gì cần căm ghét. Chúng ta cũng có đủ phẩm chất trí tuệ và sức mạnh như những dân tộc khác để xây dựng một xã hội nhân bản như chúng ta mong muốn, nếu chúng ta thực sự mong muốn.

Có thể là tôi ảo tưởng. Nhưng ảo tưởng cũng là một đặc điểm chỉ có ở con người. Đặc điểm này có thể khiến cho con người thất bại, nhưng đó là sự thất bại có giá trị. Còn ai có thể ảo tưởng hơn những kẻ xưa kia mơ ước thảm bay và mơ ước lên mặt trăng. Tuy nhiên nếu không có những kẻ ảo tưởng về một đồ vật có khả năng di chuyển trên không trung với tốc độ kỳ diệu ấy, thì chắc chắn sẽ không có máy bay, tên lửa…

Con người có bộ óc và trái tim không phải để trở thành một cỗ máy, và cũng không thể trở thành một cỗ máy trừ khi nó không còn có ý thức rằng nó là người.

N. T. T. H.

Nguồn bauxitevn

FRAMED

In Văn Chương on 2011/05/10 at 16:42

Framed,

no longer free.

You don’t have to think. I’m told.

 

You’re a consumer

Eat, Drink, Play and pursue of happiness. I’m told

 

The reality is here, on flat screen TV or in youtube

An American idol in one episode

You can have a makeover – thin, sexy, glitz

and have fame, in fifteen minutes. I’m told

 

Have a work ethics [drop other ethics], compete

Don’t be left behind [no child left behind], survivor as an alpha dog

Learn the “rules” [myriad hidden rules]! Climb the ladder [hit class ceiling]!

But, you’re too dumb to learn … I’m told

 

Savage inequalities[1], salvage unrealities[2]

Don’t be such a moralist

be practical, make money, support the war. I’m told

 

Have common sense [by consent] as a patriot

Wave the flag and support the war, a ‘terror’ [terrible] war. I’m told

 

Listen, look, on alert … open eyes, ears [and armory]

Terror, terror, terror plots in the homeland

Secure our borders, barbarians at the gate … I’m told

 

In a land blinded by flashing images:

flesh tones, bling-bling, dreamy looks

death, pain, sufferings buried under, barbarians outside the fence

a failure, uncivilized, unpatriotic. I’m told

 

Flogged, fenced, framed.

Strange fruit[3] hanging from the American dream.

 

Vi Nhân

8-8-2007


[1] Jonathan Kozol, 1992, Savage Inequalities: Children in America Schools, (Harper Perennial, 1992)

[3] A poem was originally written in 1939 by a poet by the name of Lewis Allan (real name Abel Meeropol). A frightening metaphor of how the African Americans were lynched (hanging off trees like fruits) by the whites due to racism and discrimination.