vietsoul21

Archive for Tháng Tư, 2014|Monthly archive page

Trần Trung Đạo – Câu hỏi tháng Tư

In Cộng Đồng, Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Tạp văn on 2014/04/27 at 07:59

Những ngày còn nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự mình đặt ra “Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?”

Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập cảng Tiên Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhãn “Made in USA”. Những đoàn xe vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm từ nơi dỡ hàng ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét của các phi cơ chiến đấu có đôi cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném xuống một nơi nào đó trên mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi là “hộp đêm”, mọc đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng quân tiếp vụ đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.

Phía trước tòa thị chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày chiến lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng liên có nòng súng cao, những khẩu pháo nòng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng phóng lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi phẩm còn có một chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu trước tòa thị chính. Không cần phải giỏi ngoại ngữ, chỉ nhìn nhãn hiệu tôi cũng biết ngay chúng là hàng của Trung Quốc và Liên Xô.

Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người lính trẻ miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên kia sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào chế tạo ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những đứa con và đóng góp phần xương máu.

Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi mắt buồn hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. Dù “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết.

Người lính miền Nam chết vì phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những lính miền Nam còn sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn gan uống máu quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong hòa bình để xây đắp lại mảnh đất họ đã “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi trải qua quá nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.

Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào trong túi của người dân miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắc. Tham nhũng, lạm quyền, ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có một dạo, tấm hình của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà in đất nước đã có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó là chuyện của chính quyền và nhân dân miền Nam không dính líu gì đến đảng Cộng Sản miền Bắc.

Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng từ Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Không chỉ miền Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy. Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ đã phải trải qua con đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.

Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết vì viên thuốc độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm bị giết ở Quảng Ngãi đã uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của hồi ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đã uống viên thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đã uống viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc. Không biết thì không đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời thanh niên xung phong nhưng chị may mắn còn sống để nhắc cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.”

Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?

Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong các thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng. Tôi sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN chiến tranh đã xảy ra bởi vì “Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.”

Không ai hình dung “thuộc địa kiểu mới” hình dáng ra sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rõ ràng.

Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước vốn từng là đế quốc, đã nằm trong vòng ảnh hưởng kinh tế và cả chính trị của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ý, Anh, Hòa Lan v.v… trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành những “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan được viện trợ không những tiền của mà còn bằng cả sức người để xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?

Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.

Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lãnh đạo quốc gia biết mở mắt nhìn xa. Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để lấy lòng Mỹ, lãnh đạo Thổ đã tình nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất rất nặng nề. Một nửa lực lượng Thổ đã chết và bị thương trong ba năm chiến tranh. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.

Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát biểu của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone “Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái võ trang trong nhiều mặt, kể cả sản xuất võ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới với Tổng Sản Lượng Nội Địa năm 2011 lên đến 5855 tỉ đô la nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc phòng chỉ vì Nhật dựa vào khả năng quốc phòng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn quân đội Mỹ bảo vệ họ.

Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và thực dân áp bức, một giới lãnh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ chung và có thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết phải sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.

Ngoại trừ các lãnh đạo Cộng Sản, trên thế giới chưa có một giới lãnh đạo thể hiện lòng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống nhất đất nước” và “hòa hợp dân tộc”.

Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi ký hiệp định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính Mỹ nào, hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.

Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối thù không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lãnh đạo CSVN chỉ vẽ hình ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lý do để chiếm toàn bộ Việt Nam bằng võ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan điểm chống Mỹ điên cuồng của chủ nô Mao Trạch Đông sau cuộc chiến Triều Tiên?

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn thất máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối cùng đã đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm sau đó đã nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.

Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rõ: “Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”

Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN cũng lần nữa khẳng định “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam…. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hãnh diện. Nhờ tài lãnh đạo mà đảng CSVN đã tồn tại dù cả một hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đã phải sụp đổ.

Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về mặt kinh tế đã phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được duy trì mà còn củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài miệng có hát bài hòa hợp hòa giải thắm đượm tình dân tộc, bên trong, các chính sách của Đảng vẫn luôn kiên trì với mục tiêu toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị triệt tiêu một cách tàn nhẫn.

Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ máy mà cả các lãnh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm chỉnh thực thi các nguyên tắc lãnh đạo độc tài sắc máu do đảng của họ đề ra. Điều đó giải thích lý do giọng điệu của những cựu lãnh đạo Cộng Sản như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ giống như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so với thời còn trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những người “buông dao thành Phật” nhưng chỉ vì họ đã trở về với vị trí một con người bình thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi còn tại chức.

Giới lãnh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn luyện chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí then chốt trong đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lý và vận dụng một cách khéo léo tâm lý quần chúng để phục vụ cho các chính sách của đảng trong từng thời kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đòi dân chủ của thanh niên sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai thác lòng căm thù chính sách quân phiệt của Nhật đã xảy ra từ thế kỷ trước. Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát Nam Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung Quốc đã khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc biểu tình suốt 3 tuần lễ trước tòa đại sứ Nhật. Việt Nam cũng thế. Trong chiến tranh biên giới 1979, các lãnh đạo CSVN đã lần nữa sử dụng thành công viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ quốc”. Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt Trung phát xuất từ tình yêu quê hương trong sáng và đáng được tôn vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự chết vì tổ quốc hay chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?

Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho thấy, cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lãnh đạo CSVN đưa ra thực chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam, đảng vẫn cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lý do khác để đánh miền Nam.

Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở hai miền đã phải chết một cách oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị suy vong, bao nhiêu tài nguyên bị tàn phá và quan trọng nhất, chiếc còng Trung Quốc mà đảng thông đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây.

Nói theo cách viết của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta đã tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác chỉ vì Việt Nam có đảng Cộng Sản.

Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu dân một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan khoa học, nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức mà còn nghĩ rằng cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai nhưng tự dối lòng để tiếp tục sống cho hết một kiếp người.

Cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ đất nước hiện nay, do đó, còn rất khó khăn, đôi gánh non sông còn rất nặng và hành trình tự do còn khá xa xôi.

Sau 39 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt nói, nếu chưa qua đời, hôm nay vẫn còn buồn.

Nhưng người buồn không phải chỉ từ phía những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân miền Nam bị mất tự do mà còn là những người miền Bắc, cả những người trong đảng CS đã biết ra sự thật, biết mình bị lừa gạt, biết mình đã dâng hiến cả một cuộc đời trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản.

Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng những dòng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể qua đi nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn còn nguyên vẹn.

Như lịch sử đã chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời đời con cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang giao quốc tế.

Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.

Ba mươi bảy năm là một quảng đường dài. Chúng ta đã hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải vì thế mà không còn cơ hội. Cơ hội vẫn còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vở, còn biết nhận ra nhau, còn biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.

Trần Trung Đạo
(30/4/2012, 30/4/2013, 30/4/2014)

Nguồn: FB Trần Trung Đạo

Nguyễn Hưng Quốc – Cái nước mình nó thế!

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn on 2014/04/26 at 19:11

Từ trên dưới 10 năm nay, một trong những câu nói cửa miệng của mọi người, đặc biệt giới trí thức, ở Việt Nam, chắc chắn là câu “Cái nước mình nó thế!” Nghe nói câu ấy xuất phát từ Hoàng Ngọc Hiến. Nhưng tôi không chắc. Tôi chỉ chắc một điều: mỗi lần nghe đề cập đến tình trạng bi đát, nhiễu nhương, trớ trêu và bất công ở Việt Nam, ai nấy đều buông một câu, thoạt nghe, có vẻ đầy ưu thời mẫn thế: “Cái nước mình nó thế!”

Đường xá càng lúc càng xuống cấp, ở đâu và lúc nào cũng kẹt xe, tai nạn giao thông thuộc loại đứng đầu thế giới ư? –Cái nước mình nó thế! Giáo dục càng lúc càng suy đồi, học trò đạo văn; thầy cô giáo cũng đạo văn; thi cử thì đầy gian lận, bằng cấp giả tràn lan ở mọi cấp ư?- Ừ, thì cái nước mình nó thế! Kinh tế càng lúc càng suy thoái, hết đại công ty này phá sản đến tập đoàn quốc doanh kia phá sản, nợ nần quốc gia cứ chồng chất ư? – Ừ, thì cái nước mình nó thế! Chính trị sa lầy trong bế tắc, đối với dân thì độc tài và tàn bạo; với nước ngoài thì hèn yếu và xu nịnh ư? – Ừ, thì cái nước mình nó thế!

Vân vân.

Câu nói ấy không phải không đúng. Nó đúng ở hai khía cạnh. Thứ nhất, trên thực tế, quả thật tình hình Việt Nam càng ngày càng bế tắc. Bế tắc một cách đặc biệt, không giống với bất cứ một nước bình thường nào khác. Bế tắc triền miên. Gỡ cái này thì vướng cái khác. Sửa cái sai này thì cái sai khác lại xuất hiện, có khi còn trầm trọng hơn. Thứ hai, về phương diện tâm lý, nó cũng phản ánh được tình trạng tuyệt vọng của mọi người. Người ta hiểu rõ tất cả bi kịch nhưng không biết cách nào thoát khỏi được bi kịch.

Tuy nhiên, ngay cả khi đúng về hai phương diện vừa kể, câu nói ấy vẫn sai.

Hơn nữa, sai một cách nguy hiểm.

Thứ nhất, nó là biểu hiện của tư tưởng định mệnh chủ nghĩa. Nó làm như mọi thứ đã được an bài, gắn liền với bản chất của người Việt Nam. Của dân tộc Việt Nam.

Nhưng chắc chắn sự thật không phải như vậy. Tất cả những cái dốt, cái ngu, cái tham, cái ác và cái vô liêm sỉ trong chế độ cũng như trong xã hội Việt Nam hiện nay không phải vì “cái nước mình nó thế”. Trong lịch sử, nước mình không thế. Ngày xưa, cả hàng ngàn năm, người Việt Nam đã từng bất khuất trước một nước Trung Hoa to lớn và hùng mạnh, hơn nữa, trước một nước Mông Cổ từng giẫm nát gần hết châu Á và một phần châu Âu. Ngày xưa, ngay cả dưới thời phong kiến, cha ông chúng ta cũng không phải chịu đựng nạn tham nhũng tràn lan như bây giờ. Chỉ cách đây hơn 40 năm, ở miền Nam, ngay cả trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, giáo dục cũng không suy đồi như bây giờ; sinh viên và giáo sư không ăn cắp văn chương của người khác một cách phổ biến như bây giờ; học trò không khinh thường thầy cô giáo như bây giờ. Ở miền Nam lúc trước cũng như cả thời Pháp thuộc, người bị bệnh, khi vào bệnh viện, không phải đút lót hết người này đến người khác, từ y công đến y tá và bác sĩ như bây giờ. Thời nào giới làm chính trị cũng nói dối, nhưng chưa bao giờ họ nói dối một cách trơ trẽn như bây giờ.

Xem cái dốt, cái ngu, cái tham, cái ác và cái vô liêm sỉ là bản chất của dân tộc Việt Nam rõ ràng là không đúng.

Mà thật ra, trên thế giới, không có dân tộc nào có bản chất như vậy cả. Những cái xấu như thế không có tính chất bẩm sinh. Chúng chỉ là những hiện tượng có tính chất lịch sử. Ngay cả một dân tộc vĩ đại như Nga hay Trung Quốc, bình thường vĩ đại, nhưng dưới chế độ độc tài, bỗng dưng thành dốt, ngu, tham, ác và vô liêm sỉ một cách lạ lùng. Nhiều quốc gia khác ở Tây phương, bình thường đầy nhân đạo, nhưng thời tư tưởng thực dân chủ nghĩa bành trướng, cũng trở thành tham và ác, dù không phải lúc nào họ cũng dốt, ngu và vô liêm sỉ.
Bởi vậy, câu “cái nước mình nó thế”, thật ra, là một câu nói vô nghĩa.

Nói “chế độ mình nó thế” thì được. Còn“nước mình nó thế” thì sai.

Thứ hai, gắn liền với chủ nghĩa định mệnh, câu nói ấy cũng mang tính đầu hàng chủ nghĩa. Trước mọi nghịch cảnh, chỉ cần buông câu “cái nước mình nó thế”, người ta dễ có cảm tưởng an tâm và chấp nhận những nghịch cảnh ngang trái ấy như một cái gì hiển nhiên, đương nhiên, không thể tránh thoát. Nó tiêu diệt mọi ý chí phản kháng, hơn nữa, mọi nỗ lực thay đổi. Nó tạo ra vẻ ưu thời mẫn thế giả. Nó đóng kín mọi lối ra. Thực chất, nó dễ trở thành một sự đồng loã với những cái dốt, cái ngu, cái tham, cái ác và cái vô liêm sỉ.
Nhà cầm quyền Việt Nam không cần một thái độ nào hơn cái thái độ ấy.

Bởi vậy, tôi nghĩ, người Việt Nam hiện nay nên tập nghĩ và tập nói: CÁI NƯỚC MÌNH NÓ KHÔNG THỂ NHƯ THẾ!

Không thể.

Nguồn: FB Nguyễn Hưng Quốc

Trần Trung Đạo – Món nợ tuổi hai mươi

In Cộng Đồng on 2014/04/23 at 18:00

(Đọc Mãi mãi tuổi hai mươi, nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở chiến trường Quảng Trị 1972)

Tôi đọc nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của anh Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở Quảng Trị lần đầu trên chuyến bay từ California về lại Boston một thời gian ngắn sau khi phát hành 2005. Nhật ký dày 296 trang, tính cả phần giới thiệu, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 1971, 28 ngày sau khi anh nhập ngũ, đến trang cuối cùng ở Ngã Ba Đồng Lộc ngày 3 tháng 6 năm 1972. Tôi đã có lần đề cập đến Mãi mãi tuổi hai mươi trong một bài viết khác, nhân dịp 30-4 muốn viết một bài riêng.

Anh Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14 tháng 10 năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội. Cha mẹ anh có đến 14 người con, vốn là chủ nhân một xưởng dệt nhỏ, có thuê người làm nhưng khi chiến tranh bùng nổ phải bán hết và dọn về xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Gia đình đông đúc, đời sống khó khăn, mẹ anh phải đi cắt cỏ bán lấy tiền. Dù nghèo khó, anh Thạc học rất giỏi tất cả các môn, nhất là môn văn. Ngày 6 tháng 9 năm 1971, anh gia nhập bộ đội. Tháng 4 năm 1972 anh được đưa vào Nam. Anh viết cuốn nhật ký từ ngày 2 tháng 10 năm 1971 đến ngày 3 tháng 6 năm 1972. Trước khi tham gia chiến trường Quảng Trị, anh đã gửi cuốn nhật ký cùng nhiều lá thư về cho anh trai từ ngã ba Đồng Lộc. Hai tháng sau, ngày 30 tháng 7 năm 1972 anh chết tại mặt trận Quảng Trị sau khi chưa tròn một năm trong đời quân ngũ.

Các hệ thống truyền thông của Đảng tuyên truyền rằng trong “một trận đánh ác liệt bên Thành cổ Quảng Trị, chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc đã bị trọng thương mảnh pháo đã cắt ngang đùi trái trận chiến đẫm máu và hy sinh tại Cổ Thành Quảng Trị”. Thật ra, theo lời anh Nguyễn Văn Hà người thương binh cùng trung đội truyền tin và cũng là người đã mai táng anh Nguyễn Văn Thạc kể lại với phóng viên báo Tiền Phong, anh Thạc không tham gia trận chiến đẫm máu tại Cổ Thành và cũng chưa bắn một viên đạn nào. Khẩu AK, bốn băng đạn vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi vượt sông Ba Lòng, anh Thạc là người đầu tiên trong đơn vị bị pháo binh VNCH bắn trúng. Cũng theo lời anh Nguyễn Văn Hà, anh Thạc còn rất tỉnh táo tuy bị thương ở đùi. Máu ra nhiều nhưng không có y tá để giúp đở, không một viên thuốc cầm máu hay giảm đau, và như thế anh Thạc ra máu cho đến chết.

Anh đặt tên nhật ký là Chuyện đời nhưng được thay bằng Mãi mãi tuổi hai mươi khi phát hành vào năm 2005. Giống như Nhật ký Đặng Thùy Trâm, nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc qua bộ máy tuyên truyền của đảng đã trở một tác phẩm có số lượng phát hành kỷ lục và gây tiếng vang lớn tại Việt Nam.

Anh Thạc thú nhận “ước mơ thầm kín” của anh là trở thành nhà văn. Cũng vì tập làm nhà văn nên văn trong nhật ký của anh không có được nét tự nhiên. Anh tả cảnh hơi nhiều. Ví dụ, ngày 20 tháng 11 năm 1971 anh tả trong nhật ký: “Cơn gió thổi từ phía đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi lao ven đường… Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những vòng sóng hình tròn toả rộng chung quanh… Sự sống hiện ra ở khắp mọi chiều. Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có giọt nắng hình quả trứng lăn nghiêng”; hay ngày 4 tháng 2 năm 1972, thay vì ghi lại những gì xảy ra trong ngày, anh tả một cơn gió mùa: “Cả rừng bạch đàn vặn mình. Những cây bạch đàn thân nâu lốm đốm trắng nghiêng ngả. Những chiếc lá thon dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những mái nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần phật những tấm tăng đã cũ. Gió reo vù vù…”

Ngoại trừ tình yêu say đắm dành cho chị Như Anh mà tôi sẽ không nhắc trong bài viết này vì tôn trọng tình cảm riêng tư, anh Thạc là sản phẩm kiểu mẫu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Anh không được đi ra nước ngoài dù đi Liên Xô, đi Tiệp. Anh chỉ nghe đài phát thanh Hà Nội, học tập lý luận chính trị từ các bài diễn văn của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, đọc truyện dịch của các tác giả Liên Xô, đọc thơ Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, các nhà thơ Liên Xô, ngoài ra không có một nguồn tư liệu nào khác. Anh tả nhiều hơn viết, một phần cũng vì ở tuổi còn nhỏ sự gần gũi và va chạm với xã hội còn khá ít.

Thần tượng tuổi trẻ của anh Thạc là Paven, tức Pavel Korchagin trong Thép đã tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky. Lại cũng Paven!

Ngày 24 tháng 12 năm 1971 anh viết về thần tượng Paven của anh: “Dạo ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn Buđionni anh đã đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Mình thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn đời mình cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.”

Thép đã tôi thế đấy là một trong những tác phẩm anh Thạc mang theo trên đường vào Nam và được anh trích dẫn khá nhiều. Anh xem đó như là nhựa sống: “Mêrétxép và Paven… Những người đầy nghị lực và có thể nói được họ đã đi tới mục đích của đời mình!” Anh hổ thẹn vì chưa được thành đảng viên CS giống như Paven: “Hôm nay, lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu. Mình chưa phải là một đảng viên!”.

Ước mơ của chàng thanh niên Việt Nam 20 tuổi Nguyễn Văn Thạc là được sống như Paven Korchagin. Chẳng lẽ anh không biết một số rất đông anh hùng dân tộc Việt Nam, đã sống, chiến đấu và hy sinh cho độc lập tự do của đất nước trong khi còn rất trẻ. Trần Quốc Toản (1267–1285) “phá cường địch báo hoàng ân” năm 18 tuổi. Trần Bình Trọng (1259–1285) “thà làm quỷ nước Nam hơn làm vua đất Bắc” khi 26 tuổi. Nguyễn Thái Học (1902–1930) “chết vì tổ quốc chết vinh quang” lúc 28 tuổi. Cuộc đời họ là những bản hùng ca tuyệt vời gấp ngàn lần hơn anh chàng Nikolai Ostrovsky bị tẩy não kia.

Đọc phóng sự Vua An Nam (Le Roi d’Annam, Nguyễn Duy Chính dịch) của ký giả Jean Locquart đăng trên Le Monde ngày 23 tháng 2 năm 1889 để biết tuổi trẻ Việt Nam đã sống và chết trung liệt như thế nào. Ký giả Jean Locquart tường thuật khá chi tiết cảnh biệt đội Pháp do Đại úy Boulangier chỉ huy bắt sống vua Hàm Nghi chiều ngày 1 tháng 11 năm 1888:

“Một buổi chiều biệt đội của đại uý được tin là sau khi bị đội lính dõng thiện chiến truy kích liên tục, cựu hoàng lẩn trốn cùng với người tuỳ viên là Tôn Thất Thiệp con trai cựu phụ chính Thuyết tại một làng hẻo lánh và kín đáo trong rừng núi cao nguyên Giai. Biệt đội của Boulangier liền bao vây nơi nhà vua ở và khi cửa chính bị đạp tung ra thì thấy Thiệp đã thức giấc vì tiếng động của vụ tấn công còn vua Hàm Nghi đang ngủ say ở bên cạnh. Cả hai người đều để gươm trần ở bên cạnh và trong tay có khí giới nhưng không chống trả được gì.Thấy chủ soái thất thế, và để tránh cảnh tủi nhục khi bị bắt đem đi, Thiệp toan đâm chết ông [vua Hàm Nghi], nhưng vì quân Pháp dự tính bắt sống nên lập tức nổ súng hạ gục Thiệp. Sau đó họ chặt đầu Thiệp và đem bêu trên cọc tre ở ngoài chợ Dang-Kha là một nơi sầm uất và còn đang xao động.”

Hai người gánh cả một non sông trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi tráng đó đều chỉ mới 18 tuổi, còn nhỏ tuổi hơn anh Thạc. Tôi tự hỏi, khi dừng chân nghỉ ngơi trong hành trình đầy gian khổ ở Quảng Trị vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thiệp nói chuyện gì với nhau. Một ông vua trẻ trước đây chưa từng ra khỏi Huế và một chàng vệ sĩ còn trong tuổi vị thành niên hẳn không có nhiều điều trao đổi. Nhưng có một điều chắc chắn họ đã từng chia sẻ, đó là mơ ước một ngày dân tộc Việt Nam sẽ không còn làm nô lệ cho Tây. Giọt máu của Tôn Thất Thiệp nhỏ xuống trên chiếc cọc tre cắm ngoài chợ Dang-Kha và giọt nước mắt của vua Hàm Nghi nhỏ xuống bên thành tàu Biên Hòa trên đường đi đày cùng có một mùi đắng cay, tủi nhục giống nhau.

Là sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội và từng là học sinh giỏi văn nhất miền Bắc hẳn anh biết Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Hàm Nghi, Tôn Thất Thiệp là ai, rất tiếc anh không được uốn nắn để sống theo những tấm gương trung liệt đó.

Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, hàng trăm ngàn đồng bào Quảng Trị phải bồng bế, gồng gánh nhau chạy vào Huế và Đà Nẵng, những quận Đông Hà, Gio Linh và các khu vực chung quanh Cổ thành Quảng Trị đã trở thành những bãi chiến kinh hồn nhưng trong nhật ký ngày 4 tháng 4 năm 1972, anh hãnh diện chép lại bản tin của đài phát thanh Hà Nội: “Đài phát thanh truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của tiền tuyến ở mặt trận Trị-Thiên-Huế ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đã diệt 5.500 tên địch; 10 vạn đồng bào nổi dậy – Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đã phải mở thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến thắng của miền Nam anh hùng.”

Anh Thạc tin một cách chân thành rằng những tin tức đó là thật. Nếu có một nhà sưu tầm nào thu thập các bản tin chiến sự của đài phát thanh Hà Nội trong suốt cuộc chiến và cộng lại, tổng số tổn thất của quân đội VNCH ít nhất cũng bằng nửa dân số miền Nam.

Trong nền giáo dục CS, anh Thạc không phải mất công tìm kiếm câu trả lời cho những thắc mắc của mình vì Đảng đã có sẳn các câu trả lời cần thiết cho suốt cuộc đời anh. Trong nhật ký ngày 12 tháng 1 năm 1972, khi ưu tư về tương lai, anh Thạc trích ngay câu nói của Lê Duẩn: ”Thanh niên hãy lấy sự hy sinh phấn đấu cho cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời mình, đừng để cho tình cảm cách mạng nguội lạnh vì những tính toán được mất cho cá nhân.” Không có tình cảm riêng tư nào cả, cách mạng là hạnh phúc cao cả nhất. Anh viết câu nói của Lê Duẩn vào nhật ký một cách trang trọng tưởng chừng y đang ngồi trước mặt và sau đó yên tâm đi tiếp, không thắc mắc gì thêm.

Dù trong bất cứ một hoàn cảnh nào, cuộc tranh đấu giữa thiện và ác diễn ra không ngừng trong mỗi con người cũng như trên phạm vi xã hội. Cũng có lúc các đặc tính nhân bản, tự do bẩm sinh trong con người anh đứng lên chống lại các yếu tố ác độc, nô dịch của ý thức hệ CS đang dồn dập tấn công. Trong nhật ký ngày 27 tháng 4, anh viết những câu đau xót cho cuộc đời mình: “Phải hết sức trấn tĩnh, tôi mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật ký này. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lý do và lung tung. Còn tôi rời rã tôi chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức, đang ở giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đời là một điều xấu xa và không thể nào tưởng tượng được – Người ta đã chửi rủa biết bao lần những thanh niên như thế – Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường mòn – Con đường mòn như chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây – Tôi ngồi bệt xuống bờ sông, con sông cạn đang rút nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới lòng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông.”

“Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông”, khóc cho anh, cho thế hệ anh đang lê gót trên con đường mòn. Nhưng thiện tính bẩm sinh trong con người anh Thạc mong manh như một nhánh tre non giữa cuồng phong thù hận. Anh bị tiêm thuốc độc vào người từ thuở mới sinh ra, biết đọc, biết viết cho đến tuổi hai mươi. Những vi trùng Pêlêvôi (Người mẹ cầm súng), Marétxép (Anh hùng phi công Marétxép) đã mê hoặc anh bằng một loại chủ nghĩa anh hùng không tưởng. Thiện tính trong anh không chống đở nổi, đã gục xuống, đầu hàng để rồi vài hôm sau trong nhật ký ngày 7 tháng 5 năm 1972 anh lại mơ được “Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề.” Anh Thạc không thể thoát ra khỏi được quỹ đạo của bộ máy tuyên truyền CS tinh vi. Mà cũng ít người thoát ra được.

Trong số 8 người bạn học đi thi giỏi văn toàn miền Bắc, phần lớn được đi học nước ngoài, riêng anh và một người bạn khác phải đi bộ đội. Trong nhật ký ngày 24 tháng 5 năm 1972, anh tự hỏi chính mình: “Thạc còn buồn không? Có còn buồn bã vì những năm tháng phải xa trường đại học, vì không được ra nước ngoài học tập – Vì các bạn Thạc, người đi đây, người đi đó, sống êm ả, sung tức với tập giáo trình. Ngày mai, các bạn về, các bạn có kiến thức, các bạn là kỹ sư, là các nhà bác học, còn Thạc sẽ chỉ là một con người bình thường nhất, nếu chiến tranh không cướp đi của Thạc một bàn chân, một bàn tay…” Anh không thể tự trả lời. Tuy nhiên, đoạn nhật ký trong cùng ngày đã giải thích lý do một học sinh hạng A1, giỏi toàn diện và từng đoạt giải giỏi văn nhất miền Bắc như anh lại không được đi học nước ngoài: “Lại nói tiếp về những trang lý lịch – Người ta bắt khai tỉ mỉ hết sức – Nào là ông, bà, cô dì, chú bác. Làm sao mà nhớ được cơ chứ – Ngay cả cái tên mình cũng khó mà nhớ được Nữa là phải nhớ cả ngày tháng năm sinh. Nhớ cả sinh hoạt vật chất và chính trị của các cụ ấy từ ngày mình có lẽ chưa có một chút gì trên trái đất này, ngay cả đó là những tế bào đầu tiên đơn sơ nhất!”

Anh Thạc nhiều tài năng đã chết một cách oan uổng chỉ vì như anh viết “vết đen của quá khứ gia đình đè trĩu hai vai”. Cha mẹ anh chẳng phải phạm tội cướp của giết người gì cả nhưng từng có xưởng dệt, mướn thợ làm công và như thế trên quan điểm Marx-Lenin, anh thuộc thành phần tư sản bóc lột, tội ác.

Anh Thạc chưa được kết nạp vào đảng và cũng chưa được làm đối tượng đảng. Anh viết trong nhật ký ngày 7 tháng 5 năm 1972:“Chao ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề. Có người sẽ bảo: Thì đấy, anh được đi bộ đội đó thì sao? Chẳng lẽ anh không được Đảng tin cậy mà lại trao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc à? Không, đừng ai nói thế! Chuyện gì cũng có điều tế nhị của nó. Nói ra ư, không khéo thì trở thành phản cách mạng mất. Có đi trong quân đội mới cảm thấy nỗi khổ của những người không phải Đỏ hoàn toàn.” Trong cùng ngày, anh viết: “Cứ mỗi lần khai lý lịch, mình lại buồn, buồn tận sâu xa.”

Anh Thạc nhắc đi nhắc lại đến mười một lần hai chữ “lý lịch” trong nhật ký và điều đó cho thấy “vết đen” lý lịch ám ảnh anh sâu đậm đến mức nào. Anh khổ tâm, đau đớn vì lý lịch gốc tư sản của cha mẹ anh trước đây cũng là điều dễ hiểu. Trong xã hội miền Bắc, Đảng là chiếc thang duy nhất đại diện cho quyền lực và quyền lợi mà mọi người phải chen nhau, đạp nhau và ngay cả giết nhau để được trèo lên cao.

Chủ nghĩa CS và chủ nghĩa Quốc Xã Đức giống nhau một điểm quan trọng, đó là sự tin tưởng vào mỗi cá nhân đặt cơ sở trên lý lịch. Chính trị lý lịch (Bio-politics) không chỉ bảo đảm tính kế tục về giòng giống nhưng còn bảo đảm mụch đích của chế độ được hoàn thành trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Chính Adolf Hitler, đối thủ hàng đầu của Stalin, đã từng bày tỏ sự thán phục dành cho Stalin và ca ngợi y trong việc làm thuần khiết hóa đảng CS Liên Xô qua việc loại bỏ các mầm mống Do Thái như Leon Trotsky, Grigory Zinoviev, Lev Kamenev, Karl Radek khỏi nội bộ lãnh đạo đảng. Stalin phê bình quan điểm chủng tộc Aryan siêu việt của Hitler và gọi đó là Phát Xít nhưng chính y lại biện hộ cho chính trị lý lịch dựa trên giai cấp xã hội.

Anh Thạc có yêu nước không? Tôi tin là có. Không những anh Thạc mà rất đông tuổi trẻ miền Bắc tình nguyện lên đường “giải phóng miền Nam” cũng vì lòng yêu nước. Nhưng tình yêu nước của các anh không phát xuất từ trái tim trong sáng của tuổi hai mươi mà được dạy để yêu nước theo quan điểm giai cấp. Miền Nam mà các anh được Đảng mô tả là địa ngục trần gian chứ không phải là những cánh đồng bát ngát, những vườn cây sai trái, những dòng sông nhuộm đỏ phù sa. Người dân miền Nam mà Đảng vẽ trong nhận thức các anh là những người đang rên siết trong gông xiềng “Mỹ Ngụy” chứ không phải là mấy chục triệu người chơn chất hiền hòa chỉ mong được yên ổn để xây dựng cuộc sống mới sau gần một thế kỷ bị thực dân đô hộ. Cũng trong nhật ký ngày 24 tháng 5, anh Thạc tin rằng Sài Gòn ngày đó là một “Sài Gòn tăm tối, dưới ách quân thù”.

Anh Thạc hiểu thế nào là tổ quốc? Trong bài thi học sinh giỏi văn miền Bắc in ở phần cuối của nhật ký, anh phân tích tổ quốc: “Được mang ngòi bút của mình phục vụ Tổ Quốc, nhằm giáo dục lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho nhân dân ta, các nhà thơ ta, bằng nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã tái hiện cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của dân tộc ta đang chiến đấu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, và dưới ánh sáng đường lối văn nghệ, chính trị của Đảng” hay trong nhật ký ngày 7 tháng 1 năm 1972, anh viết “Tổ quốc vẫn dựng xây và đánh giặc hai hòn gạch vẫn gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản.”

Tổ quốc gắn liền với “lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa” hay “gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản” như anh viết nằm bên sông Volga, sông Hoàng Hà chứ không phải sông Hồng, sông Cửu. Đoạn văn anh viết được trích gần như nguyên văn từ các đề cương văn hoá, nghị quyết, bài giảng kinh tế chính trị ở trường mà anh đã nhập tâm. Không phải chỉ một mình anh Nguyễn Văn Thạc mà phần lớn nhà văn miền Bắc không ít thì nhiều đều phạm tội đạo văn của Đảng.

Anh Thạc không phân biệt được sự khác nhau, nói chi đến mâu thuẫn, giữa Tổ quốc và Đảng, giữa ý thức dân tộc nhân bản và chủ nghĩa Marx-Lenin độc tài toàn trị. Đọc bài văn đoạt giải nhất này để thấy bộ máy tuyên truyền của Đảng không những có khả năng điều khiển hành động mà còn có thể sai khiến cả nhận thức của anh. Trong nhật ký ngày 15 tháng 11 năm 1971 anh viết:“Thằng Mỹ, nó thế nào? Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta – cái day dứt nhất trong ta là khi nào được vào miền Nam, vào Huế, Sài Gòn – xọc lê vào thỏi tim đen thủi của quân thù”. Anh không biết “Thằng Mỹ, nó thế nào” và vẫn muốn “xọc lê vào thỏi tim đen thủi” của nó. Khủng khiếp thật. Ai dạy anh viết những câu sắc máu vượt qua tuổi tác của anh như thế, chắc chắn không phải cha mẹ anh nhưng từ bộ máy tuyên truyền của Đảng.

Anh Thạc là nạn nhân của một chính sách thuần hóa tinh vi. Mục tiêu hàng đầu của tuyên truyền tẩy não CS là đào tạo những con người biết tuân phục. Thuần khiết toàn xã hội qua sách lược trồng người là mục đích tối hậu của nền giáo dục CS. Đó là lý do tại sao các lãnh tụ CS thích hôn nhi đồng. Từ Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành cho đến Fidel Castro, Pol Pot đều thích hôn nhi đồng. Hình ảnh “hiền từ” của họ bên cạnh nhi đồng là hình ảnh phổ biến nhất tại các nước CS. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tả cảnh “hôn nhi đồng” tại miền Bắc trong bài thơ ông viết năm 1970:

Bác Hồ rồi lại bác Tôn
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác màu hồng
Nước da các cháu nhi đồng màu xanh
Giữa hai cái mặt bành bành
Những khăn quàng đỏ bay quanh cổ cò.

Bộ máy tuyên truyền của CSVN là thành quả được “vận dụng một cách sáng tạo” từ cả hai hệ thống tuyên truyền CS Liên Xô và Trung Cộng nên không lạ gì họ đã lừa gạt bao nhiêu thế hệ thanh niên miền Bắc một cách dễ dàng. Đọc lại nhật ký của anh Nguyễn Văn Thạc để thấy, CSVN vào được Sài Gòn trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 bằng nhiều phương tiện nhưng hữu hiệu nhất là phương tiện tuyên truyền.

Trang nhật ký cuối cùng ghi ngày 25 tháng 5 năm 1972, anh Thạc viết: ”Kẻ thù không cho tôi ở lại – Phải đi – Tôi sẽ gởi về cuốn Nhật ký này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó, xa cuốn Nhật ký thân yêu đầu tiên của đời lính. Ừ, nếu như tôi không trở lại – Ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng này? Tôi chỉ ước ao rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này.”

Anh Thạc không trở lại. Nhật ký ngày 3 tháng 6 năm 1972 chỉ là địa chỉ “Ngã ba đồng lộc”. Hết. Những trang giấy còn lại của cuốn nhật ký cũng không phải là những dòng vui vẻ đông đúc như anh muốn. Anh ngã xuống ở Quảng Trị và trên vùng đất đó, máu của nhiều thanh niên miền Nam cũng đã đổ xuống để giành lại Cổ thành Đinh Công Tráng, giành lại Cam Lộ, Đông Hà, Triệu Phong và những vùng đất miền Nam thân yêu khác.

Anh Nguyễn Văn Thạc đã chết. Hàng triệu thanh niên miền Bắc đã chết. Hàng trăm ngàn cựu thương binh miền Bắc may mắn hơn nhưng phải sống phần đời còn lại trong khó khăn túng thiếu với số tiền phụ cấp chỉ vỏn vẹn sáu trăm ngàn và nhiều nhất là ba triệu đồng một tháng cho cả gia đình. Tất cả những mất mát và chịu đựng đó chỉ để hoàn thành mục tiêu CS hóa Việt Nam như đã xác định từ cương lĩnh đảng CSVN 1930, cương lĩnh 1935 và lần nữa khẳng định trong cương lĩnh 1991: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghịa” . Sau 39 năm, ngoại trừ những kẻ bị tẩy não, một người có nhận thức và theo dõi thời cuộc đều đã nhận ra khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” chỉ là một chiêu bài và “độc lập, tự do, hạnh phúc” chỉ là chiếc bảnh vẽ.

Xương máu của nhiều thế hệ thanh niên miền Bắc đổ xuống chỉ để hôm nay mọc lên những biệt thự nguy nga, sang trọng của các chủ tịch, bí thư, ủy viên trung ương, ủy viên bộ chính trị, những kẻ sống xa hoa trên một đất nước độc tài, tham nhũng, lạc hậu và bị phân hóa đến tận cùng. Đảng CSVN nợ những người đã chết và còn sống trong tật nguyền đau đớn quá nhiều thứ nhưng món nợ lớn nhất mà Đảng không thể nào trả nỗi, đó là, món nợ tuổi hai mươi.

Trần Trung Đạo

Nguồn: FB Trần Trung Đạo

Dương Như Nguyện – THÁNG TƯ ĐEN…VỌNG ĐẤT TRỜI

In Cộng Đồng, Văn Chương on 2014/04/17 at 09:08

Viết cho những ai từ 1975 đến nay bước vào một quốc gia mới với tư cách là người tỵ nạn …

Đỏ là đỏ trái tim non
Tại sao đỏ hết giang sơn ngậm ngùi
Tháng tư đen, vọng đất trời
Nén nhang thiên cổ cho người tha hương

Tháng tư đen
Này, tim ta máu đỏ
Trời đất đen
Ai nhuộm đỏ trời Nam?

Cúi đầu thật thấp
Vì đâu vinh?
Vì đâu nhục?

Ngửa mặt lên cao
Làm sao nhớ?
Làm sao quên?

Biếc trời xanh…
Hư vô là bất tận
Làm sao không ngó xuống mảnh linh hồn?
Hay chỉ là dư âm trong tiếng hát
Hận trong lòng chôn nỗi nhớ nhung suông…

Tím thời gian
là rũ rượi không gian
Cờ xếp lại
Ủ ê đời chiến sĩ

Cờ thôi bay, giang sơn nằm đáy huyệt
Làm sao không chua xót chuyện vuông tròn
Nay chỉ còn dư âm trong kỷ niệm
Mảnh linh hồn, vạn nẻo, nhớ nhung suông…

Vọng tượng đài
Nỗi buồn xuyên thế kỷ
Biếc trời xanh
Đỏ ửng mạch tim non

Đỏ làm chi?
Từ tim hay từ lửa?
Đốt hồn ai, thử thách kẻ can trường

Tháng tư đen
Đỏ bừng cơn uất hận
Hạt mưa đen
Dòng máu đỏ còn tuôn

Biếc trời xanh
Hay tím cả thời gian
Hỏi nhân loại:
Cớ sao mình vong quốc?

Đen trời xanh
Và đỏ cả không gian
Trách lịch sử:
Tạo nên đời mất nước…

Dương Như Nguyện
April 2014

Nguyễn Trung Tôn – Chẳng lẽ dân cứ mãi cam chịu?

In Chính trị (Politics), Tạp văn, Việt Nam on 2014/04/13 at 15:01

VRNs (13.04.2014) – Thanh Hóa – Vào sáng 11.4.2014 Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp để bàn về quy định xử lý trách nhiệm liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư công. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã có những phát biểu rất đáng được ghi nhận. Ông đã “hạ mình, khiêm tốn” trước tập thể Quốc Hội. Ông khẳng định: “Chủ tịch Quốc hội cũng không phải người đứng đầu Quốc hội”. Bới lẽ tất cả những gì Quốc hội đã “quyết” đều do lá phiếu “dân chủ” của tất cả 500 vị đại biểu Quốc hội, bản thân chủ tịch không tự “quyết” nên lẽ đương nhiên là nếu có sai là do tất cả 500 lá phiếu kia, đây cũng là vấn đề xưa nay vẫn thế.

Ai bảo Đảng giao trách nhiệm cho ông đứng vào vị trí đó? Đảng giao trách nhiệm cho ông thì ông buộc phải chấp hành thôi, chứ làm sao ông dám thoái thác? Thủ tướng chính phủ cũng đã từng nói vậy đó thôi.

Nhưng có câu này thì tôi thấy ông nói đúng có một một phần thôi ông ạ.


“Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai.”

1. ”Quốc hội tức là dân.” Theo nguyên tắc và trên danh nghĩa thì Quốc Hội là của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu sự dám sát của dân. Đại biểu nào không làm tròn bổn phận, trách nhiệm thì phải bị nhân dân loại bỏ, để chọn người khác. Nhưng ở chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa này thì người dân đâu có được bầu “ Đại biểu Quốc hội đâu ” Tất cả 500 thanh viên Quốc hội đều được “ Mặt trận tổ quốc ” một tổ chức ngoại vi của Đảng giới thiệu; do sự hướng dẫn của Bộ chính trị; dự nguồn từ Trung ương Đảng chứ thằng dân chúng tôi có biết mặt mũi gì đâu mà bầu với cử. Vậy Quốc hội này đâu phải là dân. Ông nói vậy là oan cho các đồng chí của ông rồi. Các đồng chí ấy là quan chứ đâu phải là dân.

2. “Dân quyết sai thì dân chịu.” Chổ này thì ông nói đúng! Dân chúng tôi đã sai. Cái sai của chúng tôi là đã để cho Đảng của các ông lừa bịp và lợi dụng. Từ những năm 1945 thằng dân chúng tôi đã bị các ông lừa đi cướp chính quyền về cho Đảng của các ông. Sau đó thằng dân chúng tôi lại bị các ông tịch thu tài sản, nhiều người bị đưa ra đấu tố bị tử hình… Ấy vậy mà Thằng dân chúng tôi vẫn chưa sáng mắt ra. Thằng dân miền Bắc chúng tôi vẫn tiếp tục nghe theo Đảng các ông, để tiến vào miền Nam gây nên cuộc chiến “ Huynh Đệ tương tàn”, khiến máu chảy đầu rơi, xương tan thịt nát cả hai miền. Đúng là chúng tôi sai thì chúng tôi phải chịu. Sau năm 1975 tới nay thì thằng dân cả hai miền chúng tôi đã hoàn toàn bị khống chế. Đảng các ông đã thiết lập các chân rết chui sâu vào quần chúng. Uy hiếp cưỡng bức bắt buộc thằng dân chúng tôi phải cúi đầu. Từ đó tới nay thằng dân chúng tôi đâu có được “quyết ” gì đâu. Nhưng chí ít câu nói này của ông cũng đã nhắc cho thằng dân chúng tôi nhớ lại. Tại sao chúng tôi phải chịu cảnh ngậm đắng nuốt cay này. Bởi trước đây vì thằng dân chúng tôi đã “ quyết ” sai nên bây giờ phải chịu. Nhưng thưa ông vấn đề đầu tư công thì thằng dân chúng tôi đâu có biết gì. Nhưng dù ai làm sai đi nữa thì thằng dân chúng tôi cũng đành phải chịu.

3. “Chứ kỷ luật ai.” Chổ này ông nói hay thật đấy! Đảng ta làm gì cũng tài tình sáng suốt. Chỉ có thằng dân đen chúng tôi mới sai chứ, làm sao mà kỷ luật được ai trong số các đồng chí “Đảng hội” của các ông được. Vì họ là người do Đảng cử, Đảng giao trách nhiệm mà có sai thì cứ sửa, sửa không được thì mặc dân. Dân chịu tuốt chứ các đồng chí của ông có phải chịu đâu mà sợ. Chổ này ông cũng đã học được từ ngài thủ tướng Dũng khi ngài nói trước chính phủ rằng: Ngài cũng sẽ noi gương cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, không kỷ luật đồng chí nào trong chính phủ. Bây giờ ông chủ tịch Quốc hội cũng sẽ chẳng kỷ luật đồng chí nào trong Quốc hội.

Vậy là sau nhiều năm làm phó thủ dưới trướng của ngài Dũng, ông đã trở thành học trò xuất sắc rồi đấy. Ngay cả bây giờ ngồi trên ghế chủ tịch Quốc hội rồi ông vẫn còn áp dụng rất tốt những bài học đó hết sức hiệu quả còn gì.

• Nói tóm lại; Đảng các ông không bao giờ có thể thừa nhận mình đã sai được, vì Đảng của các ông là một tập thể của những kẻ luôn luôn dùng thủ đoạn mưu mô để hút máu nhân dân, dần đưa dân tộc này trở lại thời kỳ “ Đồ đá” qua cái gọi là “ Thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” mà nạn nhân của cuộc thử nghiệm không bao giờ thành của các ông chính là nhân dân Việt nam.

Thưa ông: Ông nói đúng, Thằng dân chúng tôi đã sai thì chúng tôi phải chịu. Nhưng chúng tôi chịu hết nổi rồi. Chúng tôi không thể chịu hơn được nữa. Chúng tôi đã, đang và sẽ vùng dậy để hành động và sẽ chọn cho mình một con đường đúng đắn. Lúc đó chắc chắn ông không còn phải lo biết tìm ra ai để kỷ luật, vì tất cả những kẻ gây nên tội ác với nhân dân sẽ do chính nhân dân định đoạt.

Nguyễn Trung Tôn

ĐT: 01628387716.

Nguồn: VRNs

Khánh Ly “Nối vòng tay lớn”

In Cộng Đồng, Liên Kết, Tạp văn on 2014/04/12 at 21:54

(Chị) Em còn nhớ hay (chị) em đã quên?[1]

Nhớ (quên)[2] Sài Gòn sau ngày “giải phóng”. Nhớ (quên) phố xưa đường (Công Lý, Tự Do) đã mất tên.[2a] Nhớ (quên) tiếng ca “Nối vòng tay lớn”.[3]

Để rồi những bàn tay người mẹ, người vợ, chị, em gói gắm cho con, cho chồng, cho anh, cho em trai cùng bịn rịn nắm tay tiễn biệt đi tập trung cải tạo lao động khổ sai, đi thanh niên xung phong “xưa cha đào, nay con đắp”[4], đi “nghĩa vụ quân sự” không có ngày về. Ba năm, năm năm, mười năm hay ba mươi tám năm làm người tù xuyên thế kỷ[5].

Để rồi những bàn tay lịch kịch gom góp quần áo, mùng mền, chén bát, vật gia dụng thất thểu lên chiếc xe tải đến vùng đất hoang kinh tế mới. Vài ngày, vài tuần, vài tháng trong căn “nhà” chòi vách trống, tường thưa run trong cơn đói, rét dưới cái lạnh, và không ngừng cầm cập những cơn sốt xuất huyết, sốt rét.

Để rồi những bàn chân lang thang đầu đường, xó chợ, vỉa hè rồi quá ngang căn nhà xưa đổi chủ. Một tháng, một năm, dài thêm mấy độ. Những bàn chân không chốn nương thân phải vượt suối, vượt rừng, vượt biển đại dương, đi tìm tự do, qua cơn ác mộng.

(Chị) Em còn nhớ hay (chị) em đã quên?

Chị hẵn là về “nối vòng tay lớn”, những vòng tay cày nát quê hương[6], những vòng tay xiết cổ đồng bào, những vòng tay cướp đất dân oan[7], những vòng tay giam cầm công lý, những vòng tay bịt miệng tự do[8], những vòng tay triệt tiêu tín ngưỡng[9], những vòng tay con cháu các cụ[10], những vòng tay nối giáo cho tàu[11].

Chị hẵn là về “nối vòng tay lớn”, vẫy mời chào ăn “chùm khế ngọt”, cầu siêu hồn “nạn nhân chiến tranh”[12], bắc nhịp cầu “khúc ruột ngàn dặm”.

Chị đi về nơi này (bên nớ) vẫn thế. Vẫn mỏi mòn tù đày chưa hết, vẫn mong chờ khát vọng tự do, vẫn phổ biến Thực thi Nhân quyền[13], vẫn bước chân đi tìm công lý[14], vẫn lao đao những bước đường cùng[15].

(Chị) Em còn nhớ hay (chị) em đã quên?

Chị đi về trong mùa quốc nạn, chị đi về nghị quyết ba sạo (36), chị đi về quay đầu cáo chết.

Chị đi về sân khấu Mỹ Đình[16], chị đi về hào quang (một thời) đã tắt, chị đi về chân đất bỏ quên.

Chị đi về “nối vòng tay lớn”.

© 2014 Vietsoul:21


Các bài liên hệ:

Ởm à, Tản mạn [về Khánh Ly]


[1] Ca từ “Em còn nhớ hay em đã quên?”
Nhớ Sài gòn mưa rồi chợt nắng
Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân
Nhớ đèn đường từng đêm thao thức

[2]Tháng Tư này, nhớ và quên”, Vietsoul:21

[2a] Sau 30-4-75 có câu ca dao truyền miệng “Nam Kỳ Khởi Nghĩa thôi Công Lý, Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do”

[3] Lời kêu gọi của Trịnh Công Sơn trên đài phát thanh Sài Gòn ngày 30-4 …, Youtube

[4] Sau 30-4-1975 con cái của quân cán chính VNCH bị xem là ngụy quân, ngụy quyền không được vào đại học và bị bắt đi thanh niên xung phong khai hoang, làm thủy lợi.

[5] Người tù xuyên thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu, Youtube-Đức Mẹ TV

[6]Bôxit Tây Nguyên – Đại hoạ dân tộc Việt”, Dân Làm Báo

[7] Nông dân oan Đồng Nai cùng dân oan miền Tây biểu tình tại Sài Gòn ngày 02/04/2014, Dân oan các tỉnh phía nam biểu tình tại Sài Gòn ngày 26/3/2014, Dân Làm Báo

[8] Hình ảnh linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng là không thể chấp nhận được, RFA

[9] Công an tỉnh Vĩnh Long tiếp tục hành hung tín đồ PGHH, CA Hà Nội tấn công Thái Hà, nhà thờ rung chuông báo động, Dân Làm Báo

[10]Chưa đầy 30 tuổi ‘nhảy phóc’ quan to, nhờ đâu?”, Vietnamnet & “Liệu có thể trông đợi ở con cháu các cụ?”, Đàn Chim Việt

[11]Ls Trần Hồng Phong – Mất Gạc Ma, ai có lỗi?”, “Kịch bản Ukraina cho Việt Nam”, Dân Luận & “Ra ngõ gặp… người Trung Quốc!”, Dân Làm Báo

[12]Nguyễn Thanh Sơn: Kẻ khoét sâu vào vết thương còn rỉ máu của dân tộc”, Dân Làm Báo

[13]Hội những người ủng hộ phổ biến Thực thi Nhân quyền”, Facebook

[14]Người H’mong đi đòi công lý”, “Hành trình đi tìm Công Lý”, Đàn Chim Việt

[15]Những bước chân đổi đời gian nan …”, Vietsoul:21 & “Xem nông dân Hưng Yên kéo bừa thay trâu”, Baomoi.com

[16] Ca Sỹ Khánh Ly ‘sẽ hát ở Hà Nội’, BBC

Phó Thường Dân (17) Nín thở qua cầu

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn on 2014/04/06 at 08:37

Mấy chục năm về trước, lúc còn là học sinh phó thường dân tui hay đạp xe qua eo biển ở Quy Nhơn đến trường trung học La San Bình Lợi (sau chuyển cho nhà dòng đổi tên thành trường Vi Nhân). Cái eo biển này còn được gọi là Eo Nín Thở không biết là vì eo vòng rất gắt hay là sát phi trường cuối phi đạo nên máy bay đáp lên, đáp xuống cứ như là ngay ở trên đầu.

Có người nói cái hỗn danh đó là vì khi đi ngang qua đoạn eo biển này bị ngửi mùi rác rưới do người vô trách nhiệm đổ bừa hoặc phóng uế bậy bạ nên phải nín thở. Riêng đám học trò nhứt quỉ, nhì ma này thì cho nó là Eo Nín Thở vì bao thanh niên, thiếu nữ tối tối hẹn nhau đến eo biển này ôm eo xiết chặt, xà nẹo đến nín thở luôn.

Lai Chau’s bridge collapse kills eight, injures over 30 people (Vietnamnet.vn)

Rồi, phó thường dân tui lại lan man, tào lao trớt quớt nữa rồi.

Số là mấy tuần nay phây búc rộ lên chuyện mấy em học sinh và cả cô giáo phải chui vào bao ni lông kín mít, nín thở vượt suối đến trường. Chuyện đó tưởng chừng chỉ rầm rộ lòng vòng lẩn quẩn trong cái xứ Việt Nam nhưng cắc cớ ở cái thời đại inh tờ nét này nó nhạy/nhanh quá nên tin tức vượt đại dương qua hơn nửa vòng trái đất đến cả Hoa-kỳ và Âu-châu trong tíc tắc. Mấy thằng bạn sở làm mắc dịch cười cười, khinh khỉnh cũng đưa cho phó thường dân tui coi và hỏi là mày có biết cái tin này không (Vietnam’s Bridges Are So Bad, Kids Have to Float in Plastic Bags to Get to School). Tui cười hề hề, giả lả nói cái này là độc nhất vô nhị, đương nhiên chỉ có ở Việt Nam (that’s right, only in Vietnam).

Phó thường dân tui mới bèn gúc gồ thử thì chèn đét ơi “nín thở qua cầu” nó hiện lên rầm rầm làm tui phải nín thở bởi đọc hoài hổng hết. Xưa nay tui chỉ nghĩ “nín thở qua cầu” theo nghĩa bóng chứ ai dè cái “hiện thực” (xã hội chủ nghĩa) này làm nó thịnh hành quá hổng biết nữa.

Nào là “nín thở qua cầu miền Trung”, “nín thở qua cầu trên quốc lộ 57”, “nín thở qua cầu Trà Niền”, “nín thở qua cầu cực nguy hiểm ở Nghệ An”, “nín thở qua cầu Ải”, nín thở qua “cầu ‘tử thần’ ở Hà Nội”, “cầu ‘tử thần’ ở Đô Lương”, “cầu ‘tử thần’ treo khắp nơi ở Thái Nguyên”, “Cầu Rồng Đà Nẵng phải CHÍCH xilanh”, “chuyện những chiếc cầu chưa gãy[1]  v.v…

Phó thường dân tui được biết theo kiến thức y khoa rằng thì là những ai bị thiếu ôxi quá lâu thì sẽ bị liệt não. Tui thầm nghĩ chắc nếu phải nín thở qua cầu quá lâu thì dần dà gì cũng bị bại não. Mà chắc là dzậy vì cứ nhìn những thần dân thiên đường cộng sản Bắc Triều Tiên sắp hàng khóc lóc hơn cha chết cho Ỉn[2] thì không bại não thì còn là gì?[3]

Tổng lú nhà ta đã nói con đường tiến đến XHCN còn xa nên Việt Nam chắc chưa đến cỡ đó. Nhưng nào thiếu vô số những triệu chứng tâm thần bại não thể hiện hàng ngày, nhất là trong giới nghị gật, văn nô thường xuyên đã và đang phải nín thở qua cầu.

Phải khôn hơn mọi người một tí để lén thở qua cầu mới dám tự hào “Tôi khá tự do (ở đây) ở Việt Nam. Với tôi thì (tôi biết cách), tôi hơi khôn (hơn một tí) hơn mọi người một tí để tôi biết cách làm sao cho mình có được sự tự do của mình nó trọn vẹn nhất.[4]

Quan bại não vì “nín thở qua cầu” kiếm ghế nên mới phang “Cầu sập vì người Mông đi rất nhanh … Chưa thể khẳng định do làm ẩu, hoặc thi công không đúng …[5], bao che đỡ đòn cho cánh hẩu thi công rút ruột, chắp vá để lại quả xây cất biệt thự, tư gia cho “đồng chí” phe ta, cá mè một duộc vì dù gì thì “Trưởng BQL dự án cầu treo Chu Va 6 là con rể Bí thư Tỉnh ủy.”

Chỉ tội nghiệp người dân không khôn ngoan nín thở qua cầu lần chót sau khi đã chết để bị chết chùm cả lũ “sinh mạng bọt bèo”[6]. Đám tang đưa người tắt thở qua cầu, nặng gánh nên tang gia, tang quyến, thân nhân phải thở một chút thì sập (cầu treo bản Chu Va 6 ở Lai Châu).

Chuyện “nín thở qua cầu” thiệt ra đã có từ thời nảo, thời nao chứ có mới mẻ gì mà chộn rộn, có gì mà phải lăng xăng.

Ngay từ lúc búa liềm cướp chính quyền thì nông dân đã được hợp tác xã hóa, nghe kẻng ra đồng im re “nín thở qua cầu” từ “cái đêm hôm ấy … đêm gì?[7], giới văn nghệ sĩ thì “nín thở qua cầu” theo tiếng phèng la (ban tuyên huấn) lên án cái nhóm nhân văn giai phẩm, giới thương gia thì “nín thở qua cầu” “tự nguyện hiến tặng” tài sản, của cải trong cải cách thương nghiệp. Chính quyền cách mạng ta chí ư là tình nghĩa nên cho một “phát” ân huệ[8], tắt thở, xong đời (chuyện về Bà Cát Hanh Long) để ân nhân không phải lay lắt suốt đời “nín thở qua cầu” làm kẻ bị mất phép thông công[9].

Tưởng chỉ có dân mới phải “nín thở qua cầu” để có thể sống còn trong thiên đường cộng sản. Còn cán bộ đảng và nhà nước thì sao?

Hóa ra cốt cán cũng chia sẻ nỗi trần ai này. Nhưng mà là để giành ăn. Họ cũng trầy vi, tróc vẩy nín thở qua cầu khi phân chia bổng lộc giữ/giành ghế “Giai đoạn trước thềm đại hội này là thời kỳ ‘nín thở qua cầu’. Nghĩa là nói gì cũng phải giữ, phải rào trước, đón sau, có khi có những đề xuất mới hay cả những việc chưa bằng lòng cũng phải nén xuống. Lá phiếu sắp tới mới là điều quan tâm.

Nhưng chuyện “nín thở qua cầu” đó có lẽ chỉ cho đám tép riu lẻ tẻ phải phấn đấu chứ các thái tử đảng, con ông cháu cha, con cháu các cụ thì đã cài, cắm thì cóc cần đụng tới sợi lông chân.

Ông Tề thiên của đảng đã rứt sợi lông phù phép thở (thổi) một cái là cô hồn các đảng con cháu ai nằm vào chức vị đó. Thổi một cái thì “Con trai thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng được đề bạt làm Phó bí thư tỉnh ủy Kiên Giang[10], phù một cái thì “Con trai Bí thư Lê Thanh Hải lên chức[11], phép một bài thì “chuẩn bị vai trò lãnh đạo cho thế hệ thái tử đảng[12] lên ngôi.

Phó thường dân tui quen quét lá đa nên hổng cần cà ràm làm chi. Dzậy mà phải chịu nín thở qua cầu hoài thì có ngày trở nên tửng tửng rồi gái nó chê nên hổng hạp với nó.

Sau cái ngày 30-4-75, phó thường dân tui nín thở qua cầu được vài năm ngáp ngáp thấy hổng đặng nên bỏ của chạy lấy người. Sang đến nước dân chủ tiến bộ được thở bầu không khí tự do nó thiệt là khỏere. Hổng phải kiểu “khỏe re như con bò kéo xe[13] mà người tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu mơ ước hoài. Chẳng phải nhìn trên, ngó dưới, dòm trái, liếc phải mỗi một khi nói, khi làm bất cứ chuyện chi.

Ai đời phó thường dân tui đang sống yên lành lại có thằng cha tới ca bài con cá hòa hợp, hòa giải (theo nghị quyết 36). Mỗi lần nghe “khúc ruột nghìn dặm, tình tự quê hương chùm khế ngọt” là rụng rốn. Thằng chả còn dứ dứ cái mẻ “Hàng triệu kiều bào có nguy cơ mất quốc tịch” như thể là món mồi ngon để cáo (sắp) chết quay đầu về cố quận, đầu tư mua nhà dọn sẵn cho chuyện hậu sự.

Má ơi, hồi đó con chạy dắt giò lên cổ vì sợ phải nín thở qua cầu sống trong chế độc tài cộng sản mà giờ này tự nhiên bại não hay sao mà nhận cái hộ chiếu (chế độ) thổ tả đó.

Tui chắc mấy chả tưng tửng rồi nên mới chơi trò khỉ đột như dzậy. Sang đến thế kỷ 21 này, thuyền nhân người Việt vẫn còn vượt biển sang Úc[14], lao động xuất khẩu trốn ở lại nước[15] ngoài hầm bà rằng. Bộ không phải họ bỏ phiếu bằng chân từ bỏ cảnh đời “nín thở qua cầu” ở “chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt” độc tài, độc đảng thối tha ba đời rồi còn gì.

Cả dân tộc Việt Nam đã “nín thở qua cầu” để sống còn dưới chế độ độc tài, độc đảng vô nhân. Nhưng “nín thở qua cầu” hoài thì chịu đời sao thấu. Ai mà hổng thấy sao?

Thiên hạ không ai còn muốn nín thở qua cầu nữa nè. Ai mà không thấy luồng gió dân chủ từ cách mạng hoa nhài, khối 8406, phát súng hoa cải anh em Đoàn Văn Vươn, mạng lưới blogger, văn đoàn độc lập, nhóm vận động về quyền con người, Hội Phụ nữ Nhân quyền, diễn đàn Xã hội dân sự, Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do, Hội Dân oan, Hội Tù nhân lương tâm và các nhóm xã hội dân sự khác cùng với công dân và nông dân đang bùng nổ.[16]

Người dân không thèm nín thở qua cầu nữa. Ai cũng muốn hít thở bầu không khí tự do dân chủ trọng quyền làm người – cái quyền cơ bản đã có từ khi mới lọt lòng. Cả thế giới đã công nhận rồi mà trời. Dù tỏ lộ hay không, mấy ai còn chấp nhận áp bức và cưỡng hại bởi tà quyền đảng trị đâu.

Tui và biết bao người trong và ngoài nước không còn ngờ là chuyện sang giai đoạn sống khỏe re (không) như con bò kéo xe còn xa lắc xa lơ. Nhưng trời có muốn cũng không cản nỗi.

Tất cả cùng nhau quăng xuống sông cái lối sống “nín thở qua cầu”.

© 2014 Vietsoul:21


[Loạt bài Phó Thường Dân: (1) Anh tám hồ hởi – (2) Nôị-thực-dân – (3) Sợ – (4) Kỳ đà – cắc ké – kỳ nhông – (5) Con dân – con cá – cò mồi – (6) Bình vôi – bái vật – bà đồng – (7) (Vô) Hậu  – (8) Gió mưa là chuyện của trời …  – (9) Vô liêm sỉ – man rợ – (10) Phế-anh-hùng – (11) Luật Lệ(nh) … (12) Nhà em có nuôi một con két … (13) Cái nhà là nhà của ta … (14) Mèo – thỏ (15) Phố Vẫy (16) Mít tờ Đàm và Bác Hồ (18) Bán Thân – Bán Thận – Bán Thần (19) Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm]

Chuyện những chiếc cầu chưa gãy” nhiều nguồn trên mạng

[2]Khóc chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-il qua đời”, Youtube

[3]Không khóc thương lãnh tụ là có tội?”, Soha.vn

[4]Tôi khá tự do ở Việt Nam”, BBC Tiếng Việt

[5]Cầu sập vì người Mông đi rất nhanh”, Dân Làm Báo

[6]Sinh mạng bọt bèo”, Dân Làm Báo

[7]Cái đêm hôm ấy … đêm gì?”, Phùng Gia Lộc (Vietsoul21)

[8]Chân dung của một tên bồi bút”, Dân Làm Báo

[9]Kẻ bị mất phép thông công”, Nguyễn Mạnh Tường (Viet-studies)

[10]Con trai thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng được đề bạt làm Phó bí thư tỉnh ủy Kiên Giang”, Dân Luận

[11]Con trai Bí thư Lê Thanh Hải lên chức”, BBC Tiếng Việt

[12]Chuẩn bị vai trò lãnh đạo cho thế hệ thái tử đảng”, Viet-studies

[13]Khỏe re như con bò kéo xe”, tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu

[14]Thuyền nhân Việt Nam vượt biển qua Úc tăng vọt”, RFI Tiếng Việt

[15]Lao động bỏ trốn tại Hàn Quốc sau khi hết hợp đồng: Phạt 100 triệu đồng vẫn không sợ”, danviet.vn

[16] Người dân Ninh Thuận biểu tình ngày 27/3/2014 phản đối việc khai thác titan và công an bắt người vô cớ, Dân Luận.
Nông dân oan Đồng Nai cùng dân oan miền Tây biểu tình tại Sài Gòn ngày 02/04/2014 & Hàng ngàn người dân Phản Đối chính quyền cưỡng chế, cướp đất tại xã Quỳnh Văn, Quỳnh Lưu, Nghệ An, Dân Làm Báo