vietsoul21

Archive for Tháng Bảy, 2012|Monthly archive page

Vũ Đông Hà – Đứa nào là tổ sư lợi dụng lòng yêu nước?

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Việt Nam on 2012/07/28 at 15:57

 

Đứa nào thay tên đổi họ, che tông họ Cộng, dấu tích loài Sản, rao hàng Việt minh, lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để “cướp chính quyền”?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để cướp xong là độc lập thành độc quyền cai trị đất nước?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để lập nên điều 4 và sau đó có đứa tuyên bố bỏ đi là tự sát?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để gào lên “Thương cha, thương mẹ, thương chồng / Thương mình thương một, thương Ông thương mười / Yêu con yêu nước yêu nòi / Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!; để oe oe Tiếng đầu lòng con gọi Stalin?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để thiết tha tha thiết “Bên kia biên giới là nhà/ Bên nầy biên giới cũng là Quê hương”?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để sẵn sàng đốt cháy Trường Sơn, xua hàng triệu thanh niên Việt Nam vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn, sinh Bắc tử Nam?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để nướng hàng nghìn thanh niên Việt Nam trên núi rừng Tây Nam?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để gửi thanh niên ra chiến trường Việt Bắc và sau đó làm đẹp lòng quân xâm lược – nay đã trở thành đồng chí 4 tốt 16 vàng – xóa bia đục mộ những người con nước Việt hy sinh vì tổ quốc?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để cắt đất, chia rừng, bỏ biển, bỏ đảo cho những con cắc kè đồng chí-xâm lược-đồng chí đã từng huênh hoang “dạy cho VN một bài học”?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để Ải Nam Quan, nửa Thác Bản Giốc và một phần lãnh thổ biên giới Việt Trung bị xóa tên trên bản đồ Tổ quốc?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để ký công hàm dâng đảo, để ngày hôm nay Hoàng Sa – Trường Sa được các đồng chí “bên kia biên giới là nhà” chính thức trương bảng Tam Sa?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để treo đèn lồng phương bắc, gắn thêm sao trên cờ đỏ 4 cánh, rình rập âm mưu đem tiếng nước “lạ” dạy cho học trò con nít dân ta?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để tống giam thiếu nữ biểu tình tại nhà – đả đảo quân xâm lược?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để đạp mặt chính “đồng chí” của mình xuống đường phản đối bọn xâm lăng?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để bắt người phụ nữ lên tiếng bảo vệ biển đảo vào trại phục hồi nhân phẩm?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để bán rẽ tài nguyên tổ quốc?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để vẽ vời các đề án phát triển đất nước nhằm rút ruột công trình?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để ăn cắp tiền bá tánh ODA?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để vay tiền mượn vốn và làm giàu trên núi nợ của quốc gia?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để đổ lên đầu nhân dân Vinashin, Vinalines, trái bom bùn đỏ bô xít trên nóc nhà Tây Nguyên?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để ra đi từ vô sản trở về là tài phiệt, tư bản đỏ?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để bám ghế giữ quyền trong khi tự thú nhận cả đám là một bầy sâu – sâu nhỏ, sâu lớn; cả lũ từ trên xuống dưới càng chỉnh càng đốn?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để phán rằng đóng phí là yêu nước?

Đứa nào lợi dụng lòng yêu nước để phán rằng vệ sinh là yêu nước?

Đứa nào…

Đứa đó, chính nó là tổ sư lợi dụng lòng yêu nước. 

Đứa đó:

không có yêu nước mà chỉ có lợi dụng lòng yêu nước. 

   đó là nghề và độc quyền của tổ sư. 

 “thằng” nào khác yêu nước là “thằng” đó láo! 

   “Con” nào khác yêu nước, “con” đó là đồ phản động!

Nguồn: Danlambao

Đông Ngàn Đỗ Đức – Âm và dương

In Liên Kết, Tạp văn, Triết Học, Văn Hóa on 2012/07/22 at 09:15

 

Image

Minh họa: Đỗ Đức

Âm dương của người Trung Hoa là ngày và đêm. Biểu tượng là hình tròn chia đôi theo hình chũ S.

Âm dương của người Việt là hình tượng trời và đất. Trời tròn, đất vuông, trời tròn là bánh dày đất vuông là bánh chưng. Trời là dương, đất là âm. Hình tròn là cực đại, hình vuông  là cực tiểu. Khi tăng liên tục số cạnh của hình vuông lên thành đa giác, đến một giới hạn cuối cùng  thì hình vuông biến thành hình tròn. Vũ trụ quan của  người Trung Hoa là diễn biến theo thời gian, vũ trụ quan của cha ông ta là vật chất. Là đất.

Âm dương theo quan niệm của ta lành hơn, không đối chọi như Trung Hoa mà là sự phát triển từ một chất rồi chuyển sang dạng khác. Đó là một vũ trụ quan rất nhân sinh, đồng nhất mà không đối chọi như ngày và đêm.

Dân ta còn gọi tổ quốc là đất nước. Với tôi, đất và nước cũng là một hình thái âm dương. Đất dương, nước âm. Hai loại vật chất này gắn kết tạo cho  cuộc sống muôn loài sinh sôi. Cũng như vậy, đàn ông và đàn bà có thể coi là âm và dương. Có đàn ông và đàn bà mới có thế giới loài người.

Có một lần về quê, thấy nhà ông chú treo phía bàn thờ một miếng vải đỏ vẽ ba buông, bảy tròn, hình có chỗ lồng đè lên nhau (giờ thì tôi không còn nhớ cấu trúc của nó nữa), Tôi hỏi chú: Đó là gì vậy? phải chăng là hồn vuông vía tròn, đây là ba hồn bảy vía? Chú cười bảo, năm nay chú tròn bảy mươi, thím vẫn còn, con cái có nếp có tẻ không hư hỏng thì được treo cái này, nó là tượng trung cho sự hoàn thiện. Lúc ấy tôi còn bé cũng chẳng hiểu thế nào.

*   *   *

Một người bạn trên net reo lên với tôi: “ Bánh dày bánh chưng đúng là triết lý âm dương đấy anh. Tôi hồi nhỏ thường nghe bà già hát ru mấy đứa em:“Ba vuông sánh với bảy tròn / Đời cha vinh hiển đời con sang giàu”, “Lạy trời cho đặng vuông tròn / Trăm năm cho đặng lòng son với chàng”

Rồi anh dẫn tiếp Kiều:“Trăm năm tính cuộc vuông tròn / Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”. Hoặc: “ Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn / Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay” .

Anh bảo tôi:

“Biểu tượng vuông-tròn , tròn vuông lồng lên nhau còn xuất hiện ở rìa ngoài mặt trống đồng Yên Bồng: Trời tròn vì trời là dương, đất vuông vì đất là âm, nên biểu tượng trời là hình tròn, đất là hình vuông như trong hình ảnh chiếc bánh chưng, bánh giày vậy.” ( BS Hồ Hải))

Lại buồn cười khi mới ở quê ra tỉnh, đem cái suy nghĩ đồng quê với bạn bè, chúng bảo mình là âm lịch.Âm lịch như cái gì đó lạc hậu chậm tiến như lệ làng so với phép nước. Nhưng  rồi hóa ra không hẳn thế. Âm lịch hay dương lich ví phố phường và  thôn quê chỉ là cái vách ngăn cách mỏng manh con người áp tư tưởng vào, chứ mỗi mặt nó  đều chứa đựng các giá trị không thể thay thế cho nhau…

Với người nông dân , đất là bầu trời, âm đấy mà là dương. Bầu trời ấy tròn  trặn thì người nông dân mở mày mở mặt, tròn trặn miếng cơm manh áo.

Với những lợi ích nhóm thì đất cũng là bầu trời tiền lồng lộng của những kẻ đầu cơ, vì đất nó đẻ ra tiền. Phân đinh âm dương ở đây có khác. Đất trong tay nông dân làm ra lương thực là an ninh cả nước. Đất trong tay lợi ích nhóm thì đẻ ra tiền chỉ thu lợi cho một số người.  Khi vận động thì vẫn trên mảnh đất đó  hai cách đầu tư tạo ra đối nghịch như sáng và tối, như âm và dương. Cuộc diễn biến âm dương  ở ta đang đi vào những chặng quyết liệt, điều chỉnh thế nào cho hòa hợp thì cần cái nhìn có tầm chiến lược ở tầm vĩ mô. Vậy hãy cùng chờ xem!

Nguồn: FB Dongngan Doduc

Người Buôn Gió – Ngôn từ

In Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2012/07/20 at 09:40

– Bố ơi ! Thế nào là xâm lược.?

– Là đầu tiên nó đưa quân sang nước mình, bắn giết quân đội mình, đuổi dân mình đi, ai chống lại không đi là nó giết, bắt bỏ tù. Cướp tài sản của dân mình trên đất nó chiếm.

– Rồi thế nào nữa bố, nó đuổi đánh giết xong thì nó lấy đất mình làm gì.?

– Nó cho dân nó khai thác tài nguyên, trồng trọt, đánh bắt hải sản nếu trên biển, muông thú ở trên rừng nơi nó chiếm được của mình.

– Thế nó lấy hết của mình à bố.?

– Ừ lấy xong nó còn kinh doanh, ví dụ ai đi qua vùng nó chiếm phải xin phép nó, và nộp tiền cho nó.

– À thì ra xâm lược là vậy,thế đối phó với xâm lược thì phải làm gì.?

– Chỉ có đánh lại thôi con à, dẫu yếu hơn, dẫu chết cũng phải đánh lại. Lịch sử nước mình bất kể đời nào cũng đánh lại quân xâm lược.

– Con thấy Trung Quốc nó bắn giết bộ đội mình ngoài đảo, nó xây đồn, xây nhà tù. Nó đánh đuổi giết ngư dân mình nếu đánh cá ở đó. Rồi nó cho dân nó hàng đoàn sang biển của mình đánh cá. Thế có phải là xâm lược hay không.?

– Không, đó là vi phạm con ạ.?

– Sao lạ thế, như bố kể thì là xâm lược còn gì. Thế vi phạm là gì.?

– Là ở mức độ nhẹ nhàng, kiểu như bà Cúc bán hàng nước vỉa hè, bị công an thu hết đồ, phạt tiền, rồi tổ dân phố họp nhắc nhở, kiểm điểm.

– Nhưng bà Cúc không giết người, không đánh đuổi ai để ngồi đó, bà ý bị phạt lần sau bà ý còn sợ, thấy công an, dân phòng còn thu đồ chạy. Bà Cúc cũng không đào đất chỗ đó lên bán, bà chỉ bán mấy cốc nước thôi. Không như bọn Trung Quốc. Như chúng là xâm lược.

– Mày bé mồm thôi, mấy hôm nay tao chở mày đi đâu, công an ngầm theo dõi. Tao cứ băn khoăn là không biết tao làm gì chúng nó theo. Giờ tao biết hoá ra là chúng nó theo mày. Cái việc gọi là vi phạm hay xâm lược không phải là quyền của lịch sử, không phải của nhân dân, không phải tao và mày. Cái này là của Đảng và Nhà Nước quy định nghe chưa. Chuyện biển Đông là chuyện phức tạp, nói đển biển Đông là không chỉ biển Đông mà thôi, nói đến biển Đông là nói đến cả những cái nằm ngoài biển Đông.Giải quyết vấn đề biển Đông không chỉ là giải quyết biển Đông mà bao trùm những thứ liên quan đến biển Đông. Muốn giữ biển Đông không phải chỉ nhăm nhe giữ biển Đông mà phải giữ cả những cái không liên quan trực tiếp đến biển Đông nhưng có mối tương quan, gắn bó thiết thực với biển Đông. Biển Đông là vấn đề phải nhìn cho rộng ra những vấn đề khác nữa ngoài biển Đông….

– Thôi thôi, bố đừng Đông, đông nữa, con lú rồi. Nghe nhức cả đầu, từ giờ biển Đông của ai mặc kệ,bố cho con mượn máy chơi game nhé.

– Đấy con ngoan, bố cho con mượn máy, con chơi trò gì.?

– Con chơi trò, Hải Chiến Trường Sa bố ạ.

– Không được, chơi trò khác đi con, chơi trò đó bà tổ trưởng dân phố biết. Lại dẫn đoàn hỗn hợp đến nhà mình nhắc nhở, rồi lại đưa giấy triệu tập bố đi đấy con ạ.

– Bố yên tâm, con không bật tiếng đâu. Con để im lặng bố ạ.

– Ừ thế được, im lặng là vàng. Nếu mình không đủ trình độ để dùng ngôn ngữ như Bộ Ngoại Giao, mình không phân biệt đâu là xâm lược, đâu là vi phạm thì cứ im lặng là vàng con ạ.

Nguồn:blog Người Buôn Gió

Cùng tác giả:

Người Buôn Gió – Đồng “chác”

Người Buôn Gió – Ngôn từ

Người Buôn Gió – Thời của âm binh

Người Buôn Gió – Tái cơ cấu thần chưởng

Người Buôn Gió – Đêm dài biên ải

Người Buôn Gió: 18-3 trại Thanh Hà

Người Buôn Gió – Người Nông Dân Nổi Dậy

Người Buôn Gió – Hóa ra đều ăn cắp hết

Người Buôn Gió – Đi tù và đi cải tạo

Người Buôn Gió – Con trâu của ai?

Người Buôn Gió – Hà Nội trong mắt ai

Loạt bài Đại Vệ Chí Dị:

Người Buôn Gió – Đại Vệ Chí Dị

Người Buôn Gió – Đại Vệ Chí Dị

Người Buôn Gió – Đại Vệ Chí Dị

Người Buôn Gió – Đại Vệ Chí Dị

Người Buôn Gió – Đại Vệ Chí Dị – Mọi sự quái đản đều là do… thế lực thù địch

Người Buôn Gió – Đại Vệ Chí Dị: Cứ đổ cho thế lực thù địch xúi dục là OK!

Làm thế nào nỗi sợ hãi tiêu tan (How To Defeat Fear)

In Thế giới, Việt Nam on 2012/07/16 at 15:08

Làm thế nào nỗi sợ hãi tiêu tan 

Thời đó có một dũng sĩ trẻ. Vị thầy bảo người dũng sĩ phải chiến đấu chống lại nỗi sợ. Chàng dũng sĩ thoạt không muốn làm chuyện ấy. Nỗi sợ trông quá hung hãn, kinh khủng, có vẻ không thiện cảm nữa. Thế nhưng vị thầy bảo chàng phải đối đầu và chỉ dạy để chàng chuẩn bị cho cuộc chiến.

Ngày đọ sức đến. Người học trò dũng sĩ đứng một bên, và nỗi sợ thì đứng đối diện. Chàng dũng sĩ cảm thấy mình nhỏ bé và nỗi sợ xem ra to lớn, dữ hằn. Chàng dũng sĩ trẻ vực dậy tiến thẳng đến nỗi sợ, quỳ lạy ba lần và hỏi “Xin cho ta được nhập chiến với ngươi nhé?”

Nỗi sợ lên tiếng, “Ta cám ơn ngươi đã tỏ lòng nể trọng và mở lời xin phép.”

Người dũng sĩ hỏi lại, “Làm thế nào ta có thể đánh bại ngươi?”

Nỗi sợ trả lời, “Vũ khí của ta nằm ở chổ khả năng nói của ta rất nhanh và ập thẳng vào mặt ngươi. Vì thế ngươi sẽ bị khủng hoảng, suy nhược hoàn toàn và tuân theo lệnh ta. Ngươi có thể nghe lời và nể trọng ta. Thậm chí ta có thể thuyết phục được ngươi nữa. Nhưng nếu ngươi không làm theo điều ta sai khiến thì ta chẳng có sức mạnh quyền uy nào cả”.

Bằng cách đó, người dũng sĩ trẻ học được cách hủy bỏ nỗi sợ hãi.

(Từ Quyển Pema Chodron Bỏ Túi)

How To Defeat Fear

Once there was a young warrior. Her teacher told her that she had to do battle with fear. She didn’t want to do that. It seemed too aggressive; it was scary; it seemed unfriendly. But the teacher said she had to do it and gave instructions for the battle.

The day arrived. The student warrior stood on one side, and fear stood on the other. The warrior was feeling very small, and fear was looking big and wrathful. The young warrior roused herself and went toward fear, prostrated three times, and asked, “May I have permission to go into battle with you?”

Fear said, “Thank you for showing me so much respect that you ask permission.”

Then the young warrior said, “How can I defeat you?”

Fear replied, “My weapons are that I talk fast, and I get very close to your face. Then you get completely unnerved, and you do whatever I say. You can listen to me, and you can have respect for me. You can even be convinced by me. But if you don’t do what I say, I have no power.”

In that way, the student warrior learned how to defeat fear.

(From The Pocket Pema Chodron)

Báo Tiếng Vang An Nam: Một cuộc trao đổi ý kiến với ông Phan Chu Trinh

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Việt Nam on 2012/07/15 at 09:26

 

Theo cuốn Phan Chu Trinh – Toàn Tập, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2005

KHÔNG CÓ CHÍNH QUYỀN NÀO LÀ KHÔNG THỂ SAI LẦM. Vậy phải cho đồng bào chúng ta quen phản đối, khích lệ họ phản đối trong giới hạn hợp pháp, mỗi khi họ là nạn nhân của một sự bất công hoặc sự nhũng lạm nào đó. Báo chí chống đối là điều cần thiết để tố cáo một cách vô tư tất cả những sự lạm quyền, tất cả những sai lầm mà người cai trị có thể mắc phải. Ai không nói gì là tán thành. Sự nhẫn nhục hoặc đúng hơn là sự câm lặng của người An Nam làm cho chính quyền tin rằng nhân dân thỏa mãn, và chính quyền sẽ yên ngủ coi như đã tròn phận sự. Đúng là vì sao lại đi trao tự do cho những người nô lệ bằng lòng với số phận của họ?

Chúng tôi vui mừng gửi đến bạn đọc bản tường thuật một cuộc nói chuyện mới đây của một cộng tác viên của chúng tôi với ông Phan Chu Trinh.

Chúng tôi vui mừng hoàn toàn nhất trí về những vấn đề của nước An Nam với một trí thức lớn đã có một cuộc sống sôi động, đã quan sát nhiều và suy ngẫm lâu dài về những cái đã thấy, và với một người đã dũng cảm chịu đựng đau khổ, nên chính kiến và lời nói có một quyền uy đặc biệt.

Cách đây mấy hôm, tôi được dự bữa cơm tối chào mừng ông Phan Chu Trinh.

Suốt bữa chiêu đãi thân mật ấy, người bị đày biệt xứ đã kể cho chúng tôi những kỷ niệm thời ở Côn Đảo, thời bị tống giam vào nhà tù Santé tại Paris, khi ông từ chối chính phủ Pháp buổi đầu chiến tranh yêu cầu ông trở về Đông Dương để truyền tuyển mộ người An Nam đi lính tình nguyện, bởi vì ít người tình nguyện quá nên nhà chức trách địa phương phải có biện pháp ép buộc.

Ông nói với chúng tôi rằng người An Nam phải TIN CẬY VÀO CHÍNH MÌNH. Được đào tạo, uốn nắn và giáo dục theo những giáo huấn của văn minh Trung Hoa cổ, họ phải hiểu rằng một số khía cạnh của nền văn minh ấy không còn phù hợp với những đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. Hãy từ bỏ chúng không thương tiếc, không sợ sệt, vì chính Trung Quốc đã vứt bỏ chúng! Để tham gia vào cuộc đại vận động sôi nổi khích lệ các dân tộc khắp nơi, người An Nam phải dũng cảm bắt tay vào việc tiếp thu những kiến thức mà họ thiếu. Trong mọi việc, phải có một phương pháp làm việc, một tổ chức sử dụng mọi cố gắng, mọi ý chí rời rạc phải tụ hội vào tổ chức đó. Một kỷ luật xã hội cũng rất cần thiết.

Mỗi người, bỏ ngoài quyền lợi cá nhân của mình, phải tận tụy trong tính toán với quyền lợi chung, cá nhân phải biến mất trước tập thể, như vậy việc giải phóng của người An Nam tùy thuộc vào ý chí kiên trì của họ để đạt được nó.

Ông Phan Chu Trinh không thuộc phái chủ trương giải phóng bằng bạo lực, bằng vũ khí. Ông nói rằng ngày mà chúng ta đã khá phát triển để xứng đáng đứng vào hàng ngũ những dân tộc hiện đại, ông chắc rằng nước Pháp hẳn sẽ thỏa mãn những yêu cầu của chúng ta.

– Hãy tiến lên, ông nói to, hỡi thanh niên của thế hệ hiện đại, chúng tôi đặt cả hy vọng vào các bạn. Trên con đường tiến bộ mà các bạn đi những bước dài, những người già yếu tuổi tác [1] như tôi sẽ phải chống gậy theo các bạn để khỏi rơi rụng dọc đường.

– Trong khi trong thiên nhiên, mọi thứ đều là vận động và tiến hóa, tại sao chúng ta lại chậm trễ rồi tụt hậu với những công thức cũ rích của những nguyên tắc lỗi thời? Không có sự dừng lại trong sự tiến triển của một dân tộc. Dân tộc nào không tiến lên thì thụt lùi. Cũng phải nhớ rằng nước An Nam dưới thời Trần đã có một kỷ nguyên vinh quang và thịnh vượng nổi bật. Chính quyền thời ấy là một chính quyền dân chủ, từ ngữ mà lúc bấy giờ Châu Âu chưa biết đến vì bất kỳ đâu, Châu Âu lúc đó đang rên xiết dưới sự chuyên chế tàn bạo của chế độ phong kiến. Vài năm sau, những ông vua xấu – mà tôi không muốn nêu tên – đã đưa vào nước ta nền văn minh Mãn Châu mà họ là những tín đồ trung thành. Và đó là sự tan vỡ của lịch sử chúng ta. Con người bị rơi vào tình cảnh nông nô, phải chịu sưu cao thuế nặng mà không dám than vãn. Từ đó mà có sự nhịn nhục, sự thụ động của nhân dân An Nam. Điều đó phải chấm dứt. KHÔNG CÓ CHÍNH QUYỀN NÀO LÀ KHÔNG THỂ SAI LẦM. Vậy phải cho đồng bào chúng ta quen phản đối, khích lệ họ phản đối trong giới hạn hợp pháp, mỗi khi họ là nạn nhân của một sự bất công hoặc sự nhũng lạm nào đó. Báo chí chống đối là điều cần thiết để tố cáo một cách vô tư tất cả những sự lạm quyền, tất cả những sai lầm mà người cai trị có thể mắc phải. Ai không nói gì là tán thành. Sự nhẫn nhục hoặc đúng hơn là sự câm lặng của người An Nam làm cho chính quyền tin rằng nhân dân thỏa mãn, và chính quyền sẽ yên ngủ coi như đã tròn phận sự. Đúng là vì sao lại đi trao tự do cho những người nô lệ bằng lòng với số phận của họ?

Còn về tinh thần gia đình và các vị nói đó, đó là một điều rất hay, là điều duy nhất đáng kính nể. Tôi không thể không cảm thấy vô cùng buồn bã khi thấy đến lúc xế chiều những ông già bà già suy yếu thảm bại, mà không có một cánh tay mạnh khỏe để dựa vào. Phải giúp đỡ bố mẹ, những người đã lo lắng và nhọc nhằn nuôi nấng con cái. Đó là bổn phận sơ đẳng nhất của con người.

– Người ta phải biết sự căm ghét của ông đối với triều đình Huế! Một phong trào dư luận đang thành nhằm xóa bỏ vương quyền. Ông có thể nói cho chúng tôi biết ý kiến của ông về vấn đề này?

– Quả thực – Phan Chu Trinh trả lời – tôi không mặng mà lắm với triều đình Huế. Điều đó giải thích sự thất sủng rồi án tử hình mà tôi phải chịu. Nếu bây giờ tôi còn giữ được cái đầu trên cổ, đó là do sự can thiệp của những nhân vật có thế lực ở Pháp [2]. Ý kiến của tôi về cái triều đình hình thức ấy không thay đổi. Tôi đồng ý xóa bỏ nó đi một cách hoàn toàn và đơn giản và thay thế bằng sự cai trị trực tiếp của chính quyền bảo hộ Pháp. Giải pháp ấy, ngoài những điều lợi mà nó đem đến, còn vì ngân sách khỏi phải vì những mục đích mơ hồ và duy trì một ông vua ủy mị và những thượng thư không quyền hành. Nó còn làm cho người An Nam có quan hệ trực tiếp với chính quyền bảo hộ. Chính phủ bảo hộ sẽ không thể dùng nhà vua để che giấu những ý đồ của mình, để chối cãi vai trò chủ trương hoạch định của mình về những biện pháp hành chính, và do đó, phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những biện pháp ấy. [Đọc đến đây tôi không thể không liên tưởng đến hệ thống Đảng lãnh đạo và Nhà nước thực hiện của chúng ta hiện nay!]

Sự tiến hóa của nhân dân An Nam tùy thuộc một phần vào việc chính phủ Pháp quyết định vấn đề này như thế nào. Khi chúng ta can đảm cắt đứt ngay với di sản nặng nề của những thế hệ đã qua, chúng ta sẽ tiến lên phía trước một bước dài trên con đường giải phóng. Việc giải phóng này không phải không vấp trở ngại và chấn động, nhưng đó là cái giá phải trả không tránh khỏi cho mọi tiến bộ.

– Theo ông, phương tiện nào hữu hiệu nhất giúp chúng ta đạt đến sự giải phóng mà ông nói đến?

– Giáo dục, như tôi đã nói với các ông rồi. Giáo dục phổ cập khắp nơi, giáo dục tăng cường, giáo dục không theo đuổi mục đích thực dụng là giúp người An Nam mưu đồ địa vị và bổng lộc ở chốn quan trường, mà là để làm phương tiện giải phóng quần chúng. Khi đại đa số nhân dân An Nam CÓ HỌC VẤN sẽ hiểu những “VÌ SAO?” và “NHƯ THẾ NÀO?” của sự vật, khi họ ý thức được mình, ý thức được quyền lợi và bổn phận của mình, ngày ấy chính phủ Pháp sẽ phải nới lỏng những sợi dây cản trở sự vươn lên của những người bị bảo hộ, nếu không sẽ làm trái với lý tưởng của mình.

Như vậy, đám thực dân tức là tất cả những người có lợi trong việc duy trì hiện trạng, sẽ gây khó khăn. Vì thế, chúng ta phải rất thận trọng với họ; chúng ta hãy quan hệ rất thẳng thắn với họ, không khúm núm cũng như ngạo nghễ. Ở Pháp, có nhiều người Pháp sáng suốt chống đối việc cai trị thuộc địa. Ông Clémenceau, mà tôi có vinh dự được xem như là một người quen biết, luôn luôn không tán thành chính sách thực dân, vì vậy mà không ghé thăm Đông Dương trong chuyến đi thăm Trung Hoa.

Nếu trong một thời gian bị nhiều người Pháp ở đây ngờ vực, mặc dù tôi không phải là người bài Pháp, đơn giản là vì tôi có một cái nhìn chính xác đối với người và sự vật và không bao giờ không phản đối khi có những sự bất hợp pháp hoặc bất công.

– Về vấn đề giáo dục, ông có tán thành cuộc vận động của ông Phạm Quỳnh, chủ nhiệm tạp chí Nam Phong, về việc phổ biến và dùng chữ quốc ngữ ở bậc tiểu học không?

– Không, tôi cho là không thích hợp, vì giải pháp ấy sẽ làm cho ai muốn học lên sau bậc tiểu học sẽ phải mất thêm vài năm mà họ phải dùng để học tiếng Pháp. Đã có chuyện một tú tài bản xứ, muốn được cùng trình độ với bạn anh ta ở chính quốc, phải học thêm 2 hoặc 3 năm. Thế mà người ta còn bắt anh ta để ra mất 3 năm để học tiếng mẹ đẻ, trong khi người nông dân trì độn nhất chỉ cần học nhiều nhất là vài tháng để đọc và viết được chữ quốc ngữ! Tất nhiên phải loại trừ những quan điểm khác vì đó dĩ nhiên chỉ là những nhận xét trên khía cạnh thực tiễn vì khi tất cả mọi thứ đều là tốc độ, phải nhanh chóng, lẹ làng, tôi thấy không hợp lý khi chúng ta chọn một biện pháp làm con em chúng ta mất một thời gian cực kỳ quý báu.

Bữa ăn tối kết thúc, nhưng ông Phan Chu Trinh vẫn nói hùng hồn, đề cập đến nhiều vấn đề, tất cả khá hấp dẫn, và được thanh niên vây quanh chăm chú lắng nghe. Tuy nhiên, trong trí chúng tôi tưởng tượng lại nỗi đau khổ dai dẳng suốt cuộc đời của ông già ấy, già nhưng vẫn còn trẻ vì trí tuệ sắc sảo, gợi lại việc ông bị đày ra nước ngoài, xa quê hương mà ông yêu tha thiết… Chúng tôi rất thán phục sự nhẫn nại của ông, lòng tin không gì lay chuyển vào sự nghiệp mà ông tha thiết theo đuổi.

Ông Phan Chu Trinh cho tất cả chúng ta tấm gương của một ý chí bền bỉ phục vụ một lòng yêu nước sáng suốt.

D.N
Báo Echo Anammite [3] (Tiếng Vang An Nam)
Ngày 17/7/1925
(Theo Lê Thị Kinh – Sđd)

_______________

[1] Nguyên văn: “Đầu đã lung lay” (không còn vững nữa)

[2] Phan Chu Trinh hoàn toàn không hay biết chuyện Phủ Phụ chánh (tên Viện Cơ Mật lúc Duy Tân còn ít tuổi) đã cải lệnh của Khâm sứ Levecque để giữ mạng sống cho ông.

[3] Báo của chính khách Nguyễn Phan Long ở Sài Gòn

* * *

PHẢI CÓ BẢN LĨNH ĐẤU TRANH…

Tiểu dẫn: Sau ngày cụ Tây Hồ về nước (1925), có nhiều người, nhiều giới chức đến thăm viếng và nghe Cụ nói chuyện. Trong số đó, cũng có người non gan, sợ tai vạ, nói với Cụ rằng: “Đối với Cụ thì người ta không làm gì được, nhưng mà chúng tôi, ở dưới tay bọn thống trị, thì một tiếng nói cứng, một việc nhỏ mọn, cũng có thể bị họ thêu dệt thành ra mà bắt bớ hình phạt…”

Cụ trả lời:

“Miễn là các ảnh hiểu rõ và có lòng cương quyết để nói, để làm là được. Còn làm chính trị, ở đâu cũng vậy, mà ở thời nào cũng vậy, nếu sợ khó nhọc, sợ hao tổn, sợ bắt, sợ tù, thì làm sao được? Dân ta bây giờ là dân mất nước, nếu muốn được nước lại, mà sợ tù tội, thì làm sao nổi! Chưa ở tù khi nào, thì còn sợ tù, chỡ đã ở rồi thì không sợ nữa. Chúng ta bây giờ nên ở tù cho đông, cho quen, để có đủ can đảm mà làm việc.

Không phải là nói liều mạng để cho họ bắt bớ mà làm ngăn trở công việc mình làm đâu. Phải biết chắc chắn cái quyền tự do là quyền của mình, không phải xin ai mà có, không phải xin của người ta cho. Lại phải hiểu rõ đường lối chính trị, phải có trí khôn sáng suốt, phải luyện tập tình hình và biết cách tùy cơ hành động, tùy cơ tranh đấu, thì mới bảo vệ được quyền tự do của mình mà công việc mình mới khỏi bị ngăn trở. Ngoài ra khi nào sức mạnh mình không chống nổi; khi nào có sự bất ngời không liệu trước được, rủi bị bắt bị tù, thì cũng phải cam chịu…”

(Theo Phan Thị Châu Liên, trong mục Phụ biên kèm theo cuốn Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử của Huỳnh Thúc Kháng, xuất bản cùng với Giai Nhân Kỳ Ngộ (do Lê Văn Siêu bình giải và chú thích). NXB Hướng Dương, Sài Gòn, 1958, tr. LXXXI-LXXXII)

Nguồn: Dân Luận

Trần Trung Đạo – Cách mạng dân chủ tại Việt Nam, khoảng cách và hy vọng

In Cộng Đồng on 2012/07/04 at 15:33
Image

Huỳnh Thục Vy bị bắt ngày 1/7/2012

Trong bài thơ Giấc mơ nhỏ của tôi có một đoạn nói về sông Bến Hải và sự xa cách giữa người Việt vẫn còn đang chảy trong lòng:  

Chào anh công nhân dệt từng tấm vải

Cho tôi làm con thoi nhỏ trên tay

Để tôi nối hai bờ sông Bến Hải

Nối lòng người vời vợi cách xa nhau. 

Bài thơ viết sau 1975, nghĩa là thời gian đất nước đã “thống nhất” bằng xe tăng và đại pháo, bằng sân bắn và nhà tù. Tôi không chỉ viết ra mơ ước của mình thôi nhưng đã nhiều lần làm con thoi nhỏ. Thay vì những buổi gặp gỡ nặng về hình thức, nếu có cơ hội tôi thường mang những người một thời đã tìm đủ mọi cách để giết nhau, ngồi lại bên nhau. 

Một lần cách đây cũng khá lâu, tôi mời hai người thuộc giới cầm bút đến nhà chơi. Một nhà văn miền Bắc và một nhà văn miền Nam. Cả hai đều may mắn sống sót sau cuộc chiến. Tên tuổi hai nhà văn không nằm trong danh sách hơn hai triệu người Việt gởi xác ở Trường Sơn, Hạ Lào, Quảng Trị, An Lộc, Thường Đức, Tam Quan, Bình Giã v.v… Nếu tính theo số lượng bom đạn do Mỹ, Liên Xô và Trung Cộng cung cấp và số người chết trên một quốc gia có địa lý nhỏ hẹp, dân số không đông như hai miền Việt Nam trước 1975, chiến tranh Việt Nam có thể được xem là một trong những cuộc chiến tranh có mức độ tàn phá cao nhất trong lịch sử nhân loại. 

Chiều hôm đó, chúng tôi ngồi thành ba góc quanh chiếc bàn tròn nhỏ sau vườn. Một buổi chiều êm ả hiếm hoi của mùa hè nóng bức. Hai nhà văn tôi mời đến đều nghe tên nhau từ lâu lắm, đọc văn nhau nhưng chỉ gặp nhau hôm đó lần đầu. Họ rất ngạc nhiên khi nghe tôi giới thiệu tên. Bắt tay mừng rỡ. Những tiếng “Thì ra, thì ra…” dồn dập. Ánh mắt họ sáng lên niềm cảm động chân thành vì chẳng bao giờ họ nghĩ có ngày gặp nhau trên xứ Mỹ này. Nhà văn miền Bắc kể lại hành trình gian nan của anh từ Bắc vào Nam. Những đêm di chuyển đầy nguy hiểm, những ngày tránh bom B52 trải thảm dọc Trường Sơn. Những trường hợp thoát chết trong đường tơ kẻ tóc khi quân đội miền Nam hành quân qua khu vực anh đang trú ẩn. Nơi anh đóng là vùng tranh chấp. Ban ngày Quốc Gia, ban đêm Cộng Sản. Người dân sống dưới hai chế độ. Ban đêm khi lính rút về đồn, anh lại ra hoạt động. Dù sao anh chỉ là nhà văn, nhà báo, không trực tiếp tham dự các trận đánh lớn nên không có những tình tiết gay go hấp dẫn. 

Nhà văn miền Nam thì khác. Anh là người lính chiến dạn dày trận mạc. Anh kể lại vài trận đánh đáng nhớ mà anh từng tham dự. Có một lần tiểu đoàn của anh được trao trách nhiệm như một “cục đường để dụ kiến”. Vừa đổ quân xuống ngọn đồi không bao lâu, đào công sự chưa xong, các cuộc tấn công liên tục của phe nhà văn miền Bắc đánh vào. Mở đầu là những cơn mưa pháo. Pháo liên tu bất tận. Pháo không ngừng nghỉ. Pháo ngày đêm. Phe nhà văn miền Nam bị thiệt hại khá nặng. Anh tiểu đoàn trưởng hy sinh ngay trong trận pháo đầu. Sau vài ngày pháo kích, các đơn vị của phe nhà văn miền Bắc từng đợt tấn công. Quá đông. Tỉ lệ có thể nói là mười đánh một. Đơn vị của nhà văn miền Nam phải chọn cái sống trong cái chết, và chống đỡ là con đường duy nhất. Bằng mọi giá phải giữ ngọn đồi. Mà cho dù có muốn rút lui cũng không rút được. Cuối cùng, phe nhà văn miền Nam giữ được ngọn đồi. Như đã tính toán, sau đó, các phi đoàn mở ra hàng loạt các cuộc oanh tạc và pháo binh của phe nhà văn miền Nam tập trung bắn nát chẳng những chung quanh ngọn đồi mà cả các khu rừng bên ngoài “cục đường”. Chung quanh ngọn đồi nhỏ ngập đầy xác chết. Sau trận đánh, những chiếc xe ủi đất của công binh đào một đường mương dài, đủ sâu để khỏi hôi thối và xúc hàng trăm xác chết của phe nhà văn miền Bắc đổ vào trong đó. Phe nhà văn miền Nam cũng chẳng hơn gì. “Cục đường” đen đã chảy thành những vũng máu đỏ. Những công sự, những căn hầm bị pháo sập trở thành những ngôi mộ chôn xác đồng đội của anh. Những chiếc trực thăng tải thương hạ cánh mang theo xác anh tiểu đoàn trưởng và rất nhiều bạn bè mới chia nhau điếu thuốc hôm qua nay đã nghìn thu cách biệt. “Nếu lúc đó không giữ được ngọn đồi thì sao?” Nhà văn miền Bắc hỏi. “Thì chết hết chớ sao, cục đường mà”. Nhà văn miền Nam trả lời. Anh cười, một nụ cười mang ít nhiều chua chát. 

Nhưng rồi anh nói tiếp: “Chắc là anh nghĩ tôi lúc đó căm thù ghê gớm lắm phải không?” Có, nhưng không ghê gớm lắm đâu. Các anh bắn tôi và tôi bắn anh. Mà cho dù các anh không bắn tôi thì tôi cũng bắn các anh. Chiến tranh mà. Xong thì thôi. Lòng căm thù chế độ Cộng Sản trong tôi chỉ lên cao độ khi sống trong nhà tù Cộng Sản và chịu đựng những cực hình đày đọa, những đối xử bất nhân, những tháng ngày đói khát”

Trời sắp tối, hai anh đều có chuyện phải đi. Họ bắt tay từ giã nhau. Không ai xin lỗi ai. Không ai tha thứ ai. Nhưng qua buổi tâm sự tôi biết, họ đã hiểu nhau hơn, đã thấy được nhu cầu của một Việt Nam hôm nay và ngày mai phải thoát ra khỏi chiến tranh, nghèo đói, độc tài và đi cùng nhân loại hòa bình, ổn định, tự do và giàu mạnh. 

Không phải ai cũng có may mắn có dịp trang trải tấm lòng như nhà văn miền Bắc và nhà văn miền Nam sau vườn nhà tôi lần nọ. Đó đây vẫn còn nhiều cái nhìn khắt khe đối với những người đang tranh đấu cho tự do dân chủ với một quá khứ liên hệ với đảng Cộng Sản. Cuộc chiến quá dài, ân oán quá sâu, không phải dễ dàng gì thay đổi hết được. Người Ý, người Ba Lan khi giong buồm, nhổ neo rời cảng, họ để lại quá khứ bên bờ biển chỉ mang trên vai ước vọng về một tương lai tốt đẹp hơn cho họ và con cháu họ. Người Việt Nam thì khác. Người Việt ra đi mang theo cả cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt. Nhiều trong số chú bác anh chị đến được bến bờ tự do khi chiếc vết thương trên da thịt vẫn còn đang mưng mủ sau bao năm tháng tù đày. Xiềng xích không còn, bom đạn đã thôi rơi nhưng tiếng khua, tiếng thét như vẫn còn nghe trong giấc ngủ quê người. Thái độ, dù khắt khe, quyết liệt hay cực đoan đi nữa cũng có lý do riêng của nó. Như nhà văn miền Nam phát biểu, chính sách của đảng CSVN từ 1975 đến nay là nguyên nhân trực tiếp của sự căm thù sâu thẳm trong lòng nhân dân Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng, đối với chế độ CS và là mầm mống của sự phân hóa, chia rẽ, hoài nghi trong cộng đồng người Việt. Nhưng dù lý do gì, các chú bác anh chị vì tương lai con cháu mình, nên suy nghĩ lại và chọn những hình thức đấu tranh hữu hiệu, thích hợp với thời đại ngày nay. 

Con đường cách mạng dân chủ Việt Nam, vì thế, khác và khó khăn hơn nhiều so với con đường đã diễn ra tại Bắc Phi và tiến trình chuyển hóa dân chủ đang diễn ra tại Miến Điện. 

Điều kiện ra đời và tồn tại của chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản tại Việt Nam không giống các chế độ độc tài cá nhân như Muammar Gaddafi tại Lybia, Augusto Pinochet tại Chile, Mobutu Sese Seko tại Zaire hay độc tài phe nhóm quân sự (Junta) Miến Điện, Argentina, Peru, Nigeria, El Salvador và cũng không giống như các chế độ Cộng Sản chư hầu chùm gởi của cây đại thụ Liên Xô một thời tồn tại ở Đông Âu. 

Phần lớn các chế độ độc tài quân sự, dù cá nhân hay phe nhóm, hình thành do kết quả của các cuộc đảo chính, lật đổ các chính phủ tiền nhiệm, nhiều khi cũng rất độc tài. Cơ hội đã đưa một số sĩ quan từ vị trí của những người lính trở thành những nhà chính trị. Ngoài lòng tham lam quyền lực và địa vị, họ không sở hữu một vốn liếng chính trị và không có một sự chuẩn bị đầy đủ để lãnh đạo quốc gia. Tham vọng quyền lực của họ chỉ là tham vọng cá nhân, phe nhóm. Muammar Gaddafi của Lybia, Hosni Mubarak của Ai Cập nổi tiếng sắc máu nhưng gốc gác chỉ là những viên sĩ quan võ biền. Các quốc gia Miến Điện, Libya, Ai Cập, Tunisia cũng không trải qua cuộc chiến tranh ý thức hệ tàn khốc suốt mấy mươi năm và vai trò của các đế quốc cũng không mang tính quyết định như trong cuộc chiến Việt Nam. 

Việt Nam thì khác. Những người lãnh đạo CSVN được đào tạo để hoạt động, tổ chức, lãnh đạo chuyên nghiệp, kiên quyết theo đuổi đến cùng các mục tiêu ngắn và dài hạn của đảng CS. Chính Lê Duẩn trong tác phẩm quan trọng Dưới Lá Cờ Vẻ Vang Của Đảng, đã xác định tham vọng nhuộm đỏ Việt Nam và “đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Từ khi thành lập vào năm 1930 cho đến nay, tuy khác nhau về chiến lược của mỗi thời kỳ và hoạt động dưới nhiều tên gọi (Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng Đảng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục tiêu. 

Nạn sùng bái cá nhân dưới các chế độ độc tài không Cộng Sản có nhưng không tác hại trầm trọng đến nhận thức của người dân. Mobutu Sese Seko của Congo là một ví dụ. Nhà độc tài khát máu của Congo này sau các chuyến viếng thăm Bắc Hàn, Trung Quốc, Rumani về đã bắt chước xây dựng một bộ máy tuyên truyền giống hệt như Cộng Sản bằng cách ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10 năm 1971 thay cả tên nước. Nhưng ngay cả khi Mobutu còn sống dân Congo chẳng những không mấy quan tâm đến những thay đổi đó mà còn một cách châm biếm gọi tên y là Mobutu Sesesescu chỉ vì Mobutu là bạn thân của tên độc tài Rumani Nicholas Ceauşescu. 

Việt Nam thì khác. Giống như “cha già dân tộc” Kim Nhật Thành của Bắc Hàn, hình ảnh một “cha già dân tộc” Hồ Chí Minh đã đóng một lớp băng dày trong nhận thức của nhiều người và ngay cả được thờ chung một bàn thờ với đức Phật Thích Ca, không một phát hiện, một chứng cớ, một tài liệu khoa học nào có thể làm lay chuyển niềm tin mù quáng vào Hồ Chí Minh trong lòng những người Việt cuồng tín. Ý thức nô lệ tồn tại dưới hình thức tà đạo đó không phải chỉ trong hàng ngũ đảng viên mà cả ngay trong những người đấu tranh chống lại các sai lầm của lãnh đạo đảng. 

Về mặt lý luận, việc so sánh với hệ lý luận Cộng Sản với những lý thuyết biện minh cho sự tồn tại của các chế độ độc tài như “Sách Xanh” (Green Book) của Muammar Gaddafi hay Đường Miến Điện Dẫn Tới Chủ Nghĩa Xã Hội (The Burmese Way to Socialism) chẳng khác gì đem giáo trình đại học so với sách tập đọc lớp vỡ lòng. Tầng lớp cán bộ làm công tác tuyên truyền ở Miến Điện và Lybia chỉ là một phường nịnh hót gió chiều nào theo chiều đó. Tại Lybia trước tháng Hai 2011, với đại đa số dân chúng Sách Xanh mang tính cách giải trí nhiều hơn là lý luận. Giáo sư Vandewalle của đại học Dartmouth và tác giả của Lịch Sử Libya Hiện Đại (A History of Modern Libya) nhận xét Sách Xanh là một chuỗi những câu cách ngôn chứ không phải là một hệ lý luận thông suốt và chẳng thuyết phục được ai. Sau cách mạng dân chủ, dân chúng đốt hàng ngàn Sách Xanh không phải vì sợ “tư tưởng Muammar Gaddafi” có cơ hội hồi sinh nhưng chỉ vì đó là biểu tượng của chế độ độc tài. 

Việt Nam thì khác. Giới lãnh đạo đảng CSVN có cả kho lý luận, một bộ máy tuyên truyền tinh vi và những câu trả lời thích hợp cho từng lứa tuổi, từng ngành nghề, từng giới, từng trình độ học vấn. Nền giáo dục một chiều và phản khoa học như cây đinh đóng sâu vào ý thức của con người từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Không ít người Việt, nhất là những người luôn bắt đầu bằng câu rào đón “đừng nói là tôi bị tẩy não đấy nhé” đã bị tẩy não mà không chịu thừa nhận hay không biết mình bị tẩy não. Với họ, sự có mặt của Đảng Cộng sản trong đời sống chính trị và sinh hoạt xã hội Việt Nam tự nhiên chẳng khác gì bốn mùa xuân hạ thu đông. Họ còn tin rằng chỉ có đảng CSVN với tư cách một đảng cầm quyền, mới có khả năng dẫn dắt dân tộc Việt Nam trên con đường đi đến một tương lai tươi sáng. Họ viện dẫn trong quá khứ đảng có vài chính sách bị cấp dưới thực thi quá tả hay quá hữu nhưng về căn bản con đường đảng chọn vẫn là con đường đúng, và tham nhũng là một hiện tượng xấu của mọi xã hội đang từng bước đi lên vả lại ngay cả Anh, Mỹ, Pháp đều đầy dẫy đâu chỉ riêng tại Việt Nam. 

Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam cũng không giống như chế độ độc tài Cộng Sản tại các quốc gia Đông Âu. Mặc dù đảng Cộng Sản tại các nước Đông Âu ra đời trước thế chiến thứ hai nhưng nếu không có sự chiếm đóng của Hồng Quân Liên Xô và sự thỏa thuận của các cường quốc Anh, Mỹ, Liên Xô, sẽ không có một nhóm quốc gia Cộng Sản được gọi là Cộng Sản Đông Âu. Bản thân của định nghĩa “Cộng Sản Đông Âu” đối nghịch với khối các quốc gia dân chủ Tây Âu, vốn đã mang nặng ý nghĩa chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh nhiều hơn các ý nghĩa về văn hóa hay địa lý. 

Việt Nam thì khác. Như tôi có dịp trình bày, trong lúc các đảng Cộng Sản Đông Âu thực chất chỉ là những dây chùm gởi sống nhờ vào sức mạnh của đồng Ruble, xe tăng và hỏa tiễn Liên Xô, khi cây đại thụ Liên Xô thối ruột thì dây chùm gởi cũng khô héo theo, đảng CSVN bám sâu vào cây đại thụ Việt Nam, sinh sôi nẩy nở bằng nhựa nguyên và nhựa luyện Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển của đảng CSVN là một quá trình đầy ngộ nhận lịch sử và họ tồn tại đến ngày nay, một phần lớn cũng nhờ vào những ngộ nhận đó. Cuộc chiến thắng của đảng CSVN ngày 30-4-1975 là kết quả của cuộc lừa gạt lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. 

Không ít người Việt cho rằng sở dĩ Việt Nam không được quốc tế quan tâm đúng mức như Miến Điện, Ai Cập chỉ vì chưa có những Giải Nobel Hòa Bình như Aung San Suu Kyi của Miến Điện hay Mohamed ElBaradei của Ai Cập, nơi những tiếng nói của họ đã được chính phủ khắp thế giới lắng nghe. 

Thật ra, tại Ai Cập quê hương của Mohamed ElBaradei và Miến Điện quê hương của Aung San Suu Kyi, dù cai trị bằng bạo lực sắc máu, quyền con người trong các quốc gia độc tài quân sự không hoàn toàn bị xóa bỏ. Chế độ thông tin, kiểm duyệt còn nhiều kẻ hở. Qua các phương tiện truyền thông quốc tế, những gì xảy trong các quốc gia này đều được thế giới biết được khá rõ. Các tổ chức đối lập, chống chính phủ, công đoàn tuy bị trấn áp nhưng vẫn có cơ hội hoạt động. Đảng đối lập Liên Đoàn Toàn Quốc Vì Dân chủ (National League for Democracy, viết tắt là NLD) của bà Aung San Suukyi có cơ sở hạ tầng vững chắc và đã thắng 396 trong tổng số 485 ghế Quốc Hội trong cuộc bầu cử dân chủ công khai được quốc tế công nhận năm 1990 trước khi bị đám quân phiệt đàn áp. Các cơ sở từ trung ương đến địa phương, kể cả đại diện của chính phủ NLD cạnh các chính phủ quốc tế bên ngoài Miến Điện cũng đã duy trì các hoạt động trong suốt thời gian bà Aung San Suu Kyi bị giam giữ tại nhà. 

Thế giới đang ca ngợi bà, ngoài đức tính can đảm và kiên trì với lý tưởng tự do còn vì thái độ ôn hòa, chấp nhận đối thoại để giải quyết các vấn đề của đất nước. Tuy nhiên không phải bao giờ thái độ ôn hòa, hợp tác cũng đem lại kết quả tốt. Như có lần tôi đã viết, hòa giải hòa hợp là con đường hai chiều, không ai có thể đứng bên này sông bắt người khác phải bơi qua sông để hòa giải với mình. Trong điều kiện Miến Điện hay Việt Nam, hòa giải tùy thuộc trước hết vào chính sách và thái độ của giới cầm quyền. 

Không giống như giới lãnh đạo Miến Điện cuối cùng đã thức tỉnh, tại Việt Nam, lời kêu thương thống thiết của tầng lớp nhân dân bị áp bức suốt 37 năm qua chỉ là những viên sỏi nhỏ rơi vào biển cả, không tạo nên gợn sóng, tiếng vang nào. Với tất cả sự kính trọng dành cho bà Aung San Suu Kyi, nếu bà phải đối phó với cơ chế lãnh đạo độc tài ngoan cố như Việt Nam, có thể bà phải chọn giải pháp của đức Giám Mục Giáo Hội Anglian Desmond Tutu, Giải Nobel Hòa Bình 1984. 

Chủ trương của đức Giám Mục Giáo Hội Anglian Desmond Tutu là một bài học giá trị để đối phó chính sách ngoan cố của chế độ độc tài. Giám Mục Desmond Tutu trong cuộc đấu tranh chống Phân Biệt Chủng Tộc Nam Phi vào thời điểm khốc liệt 1976, thay vì thỏa hiệp, đàm phán, đã kêu gọi thế giới gia tăng cấm vận, tẩy chay hàng hóa Nam Phi, cô lập chính phủ Nam Phi, trừng phạt kinh tế Nam Phi càng mạnh càng tốt mặc dù điều đó có ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng lao động phần lớn là da đen. Giám Mục Tutu chống cả sáng kiến thương lượng với chính quyền da trắng Nam Phi của Tổng Thống Reagan. Khi được hỏi cấm vận và trừng phạt kinh tế chỉ làm cho dân da đen bị đói trước, ông thẳng thắn tuyên bố nhân dân Nam Phi chịu đói nhưng đói “có mục đích”. Rất nhiều quốc gia như Anh, Mỹ và công ty quốc tế hưởng ứng lời kêu gọi của đức Giám Mục. Nền kinh tế Nam Phi bị khủng hoảng. Đồng Rand của Nam Phi mất giá đến 35 phần trăm trong một thời gian ngắn. Để cứu vãn nền kinh tế, thực chất là cứu vãn gia tài, lãnh đạo chính quyền da trắng đành phải nhượng bộ. Giám Mục Desmond Tutu được trao giải Nobel Hòa Bình 1984, giải Nhân Đạo Albert Schweitzer 1986, giải Sydney Peace 1999, giải Gandhi Hòa Bình 2005, Huân Chương Tự Do Tổng Thống Hoa Kỳ 2009 và được thế giới ca ngợi nhờ vào vai trò của ông như nhân vật hàng đầu trong nỗ lực giải quyết vấn đề phân biệt chủng tộc tại Nam Phi. 

Việt Nam không thiếu những nhà đấu tranh có nhiều năm thử thách trong lao tù, có đạo đức, có lý luận, có tâm huyết nhưng chỉ vì chưa có điều kiện khách quan và chủ quan để những ánh đuốc tự do được tỏa sáng xa hơn. Các nhóm hoạt động vì dân chủ, các nhóm đối kháng với đảng CSVN gần như không có một phương tiện nào. Ngoại trừ một số ít người hoạt động dân chủ tên tuổi đang bị tù và được các cơ quan nhân quyền quốc tế được ghi nhận, hàng trăm, hàng ngàn người đang bị đe dọa thường trực, trấn áp, tù đày trong các làng xã, quận huyện xa xôi hay đang trốn tránh tại nhiều nơi trong vùng Đông Nam Á, không ai biết được, không một tổ chức nào tổng kết hết được. Sự chịu đựng trong âm thầm câm nín của các tầng lớp nhân dân Việt Nam so với nhân dân Miến Điện và các nước Bắc Phi đau đớn hơn nhiều. Những bản án dài hạn chụp lên đầu những người yêu nước khi họ chỉ vừa cất lên tiếng nói trước những bất công xã hội. Người ít và thế cô. Giãi giang sơn Việt Nam hình chữ S thực chất là một nhà tù được bao bọc bằng một bức tường bưng bít thông tin dày và một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào. 

So sánh và phân tích một số điểm khác nhau tiêu biểu giữa Việt Nam và các quốc gia khác để thấy cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ Việt Nam khó khăn và phức tạp hơn cuộc chuyển hóa dân chủ Miến và cách mạng hoa lài Bắc Phi nhiều lần. 

Đấu tranh chống lại một hệ thống cai trị tinh vi như CSVN như thế mà chúng ta chỉ chen lấn nhau trong những chỗ đứng chật hẹp, co cụm trong những mẫu số chung có tính địa phương, tôn giáo, bám víu vào những phạm trù, lý luận lỗi thời, sẽ không giải phóng được dân tộc ra khỏi chế độ Cộng Sản. 

Đảng CSVN còn thống trị nhân dân Việt Nam được, vì ngoài nhà tù sân bắn, còn nhờ vào việc gieo rắc các mầm mống phân hóa, khai thác các bất đồng không cơ bản, đào sâu thêm hố hoài nghi chia rẽ trong cộng đồng dân tộc. Nếu các thành phần dân tộc vẫn tiếp tục chống đối nhau, tiếp tục khai thác những bất đồng nhỏ nhặt, tiếp tục kéo dài những cuộc tranh luận mà cả hai bên đều biết sẽ không đi đến đâu, rồi tất cả chỉ rơi vào chiếc bẫy của đảng CS. 

Một khái niệm quen thuộc gần như nghe mỗi ngày là chính nghĩa quốc gia. Trước năm 1975, khi nghe nói đến chính nghĩa quốc gia chúng ta tự động nghĩ đến các thành phần dân tộc đang chiến đấu chống Cộng Sản và về mặt địa lý, phải sống bên bờ phía nam của sông Bến Hải. Ngày nay, nhận thức đó không còn đúng và biên giới đó không còn tồn tại nữa. Khái niệm quốc gia dân tộc hôm nay mang ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều. Đó là chỗ dựa không phải chỉ dành cho những người Việt hải ngoại mà cả đồng bào trong nước đang chịu đựng trong xích xiềng Cộng Sản, không phải chỉ những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà tất cả những ai quan tâm và dấn thân vì một Việt Nam tự do dân chủ và thịnh vượng. 

Nội lực dân tộc phải bắt đầu từ mỗi con người Việt Nam trước khi chảy chung vào dòng thác dân tộc. Cuộc biểu tình ngày 1 tháng 7 vừa qua với sự hiện diện của rất nhiều thành phần, từ thanh niên sinh viên học sinh, nông dân, công nhân đến các bậc bô lão và văn nghệ sĩ. Đó là những dấu hiệu tích cực. Họ có quá khứ khác nhau nhưng cùng được thôi thúc bằng tinh thần yêu nước, truyền thống tự chủ giống nhau. Tổng cộng số người tham dự các cuộc biểu tình từ Hà Nội đến Sài Gòn vào khoảng vài trăm nhưng có một giá trị tinh thần rất lớn. Bước chân của họ là khởi điểm cho một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để đang diễn ra tại Việt Nam. Quyền tự chủ dân tộc trong thời đại ngày nay gắn liền với dân chủ. Nói cụ thể hơn, Việt Nam không bao giờ giành lại được Hoàng Sa, Trường Sa từ tay bá quyền Trung Cộng bằng cơ chế chính trị độc tài mất lòng dân và không được quốc tế ủng hộ như chế độ CSVN hiện nay. 

Cuộc cách mạng giành độc lập của Mỹ làm thay đổi khuôn mặt thế giới suốt mấy trăm năm nay cũng chỉ bắt đầu bằng một nhóm nhỏ khoảng từ 30 đến 130 người đã can đảm ném các thùng trà của Anh xuống vịnh Boston năm 1773. Tương tự, biến cố Phá Ngục Bastille sáng ngày 14 tháng Bảy 1789 được chọn làm ngày quốc khánh Cộng Hòa Pháp không phải để giải phóng nhiều trăm hay nhiều ngàn tù nhân chính trị nhưng chỉ là hành động mang tính biểu tượng vì ngày đó nhà tù Bastille chỉ giam giữ 7 tù nhân. Các biến cố ném trà xuống biển, phá ngục Bastille hay cuộc biểu tình 1 tháng 7 vừa qua tại Việt Nam đều không phải là biến cố lớn về hình thức nhưng chuyên chở những nội dung lịch sử. Ba sự kiện có một đặc điểm giống nhau rằng cách mạng là một tiến trình không thể nào đảo ngược. Chọn lựa hôm nay, vì thế, không còn là chọn lựa của nhân dân Việt Nam mà là của giới cầm quyền.  Bài học Tunisia, Ai Cập, Libya và Miến Điện cho thấy thuận với lòng dân thì sống mà nghịch với lòng dân sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát. 

Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh có chính nghĩa và chính nghĩa luôn thắng trận cuối cùng. Từng giọt nước đã và đang được rót vào ly. Không ai biết giọt nước làm tràn ly sẽ rót xuống khi nào nhưng chắc chắn mọi người đều biết, sẽ rót xuống từ lòng dân tộc Việt Nam và thời gian không còn xa xôi nữa. Cả hơn 700 tờ báo đảng, dĩ nhiên không cùng hô đả đảo Trung Quốc xâm lăng trên trang nhất nhưng cũng không dám chỉ trích, không xám xúc phạm bởi vì đảng biết những bước chân trên đường phố Sài Gòn, Hà Nội hôm kia là những bước chân từ khát vọng thiêng liêng và trong sáng. 

Ước mơ của hai người lính, hai nhà văn miền Bắc và miền Nam mong được thấy các thế hệ Việt Nam tương lai được sống trong hòa bình, ổn định sẽ thành sự thật. Tổ tiên chúng ta đã làm được, ông bà chúng ta đã làm được và rồi chúng ta, con cháu của các ngài, cũng sẽ làm được. Con tàu rộng thênh thang và mỗi ngày được nối thêm nhiều toa mới, đủ chỗ cho mọi người có tâm huyết hướng về cùng điểm hẹn tự do, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng cho Việt Nam mãi mãi về sau.

Trần Trung Đạo

Nguồn: Facebook Trần Trung Đạo