vietsoul21

Archive for Tháng Tư, 2012|Monthly archive page

Song Chi – 37 lần 30 tháng Tư.

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Việt Nam on 2012/04/30 at 15:19

Viết gì cho ngày 30 tháng Tư khi đã có quá nhiều và ngày càng nhiều hơn những bài viết hay, xác đáng, tỉnh táo, dưới những góc nhìn khác nhau về biến cố lịch sử này của dân tộc?

Sau 37 năm dài, sự thật rồi cũng dần dần được sáng rõ. Dù có thể vẫn còn nhiều tư liệu, chi tiết về cuộc chiến tranh VN chưa được giải mã hết, nhưng tên gọi, ý nghĩa thật sự của cuộc chiến, vì sao lại có cái ngày 30 tháng Tư năm 1975 , ai “giải phóng” ai, thế nào thật sự là “thắng” là “thua”…thì hầu như đã được những người trong và ngoài cuộc, sinh ra ở miền Bắc hay miền Nam, trước hay sau cuộc chiến, người Việt hay người Mỹ, người nước khác…phân tích khá là đầy đủ.

Và điều quan trọng hơn cả, như câu thơ của đại thi hào Johann Wolfgang von Goethe trong tác phẩm Faust “Mọi lý thuyết đều xám xịt, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”, người Việt có thể vẫn cứ tiếp tục tranh cãi bất tận về thắng, thua, chính nghĩa thuộc về ai, nhưng chính thực tế VN như thế nào sau 37 năm đảng cộng sản giành độc quyền lãnh đạo trên toàn đất nước mới là câu trả lời xác đáng nhất.

Sau 37 năm, ngoại trừ những người đang ngồi trên những cái ghế lãnh đạo cao ngất ngưởng, những người gắn chặt với chế độ này vì quyền lợi, bổng lộc, và những người không có thông tin do không hiểu hoặc không biết tìm hiểu, còn ai thực sự tin rằng việc thống nhất hai miền Nam Bắc vào cái ngày 30 tháng Tư năm 1975 để đất nước thu về một mối dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản là một điều đúng đắn, may mắn cho đất nước này, dân tộc này?

Còn ai thực sự tin rằng con đường nước VN đã và đang đi bao nhiêu năm qua là đúng, rằng sau 37 năm đảng cộng sản vẫn xứng đáng lãnh đạo đất nước?

Còn ai thực sự tin rằng nhà nước này là của dân do dân vì dân, chế độ này tốt đẹp hơn, nhân bản hơn các chế độ có mô hình dân chủ pháp trị đa nguyên đa đảng trên thế giới, thậm chí ngay cả so với chế độ miền Nam Cộng Hòa trước kia?

Rằng ngay cả cái khái niệm ổn định mà đảng vả nhà nước cộng sản vẫn tuyên truyền như một ưu thế của chế độ có thật như vậy, hay chỉ là sự ổn định về chính trị bằng vào bàn tay sắt của nhà cầm quyền, còn lại tất cả mọi lĩnh vực khác của đời sống từ kinh tế, xã hội, văn hóa, đối nội đối ngoại… đều tiềm ẩn những mấm mống bất ổn, bất công, phi lý sâu sắc không thể sửa đổi, hóa giải?

Rằng người dân có thật sự đang được hưởng một cuộc sống tự do dân chủ với những quyền căn bản của một con người, một công dân, và sự bình yên trong tâm hồn?

v.v…và v.v…

Tôi tin rằng ngay cả trong cái thiểu số vừa nhắc đến ở trên-những người đang ngồi trên những cái ghế lãnh đạo cao ngất ngưởng, những người gắn chặt với chế độ này vì quyền lợi, bổng lộc, và những người không có thông tin-trong thâm tâm cũng không còn tin những vào những điều đó nữa.

Sau 37 năm, mọi huyền thoại được tô vẽ xung quanh đảng, nhà nước, chế độ…đều vỡ vụn ra như những bọt bong bóng xà phòng. Thực tế, đảng cộng sản VN đã và đang thua cuộc nặng nề. Thua từ cái lý thuyết ngoại lai không tưởng cùng với mô hình xã hội được xây dựng từ đó mà họ sao chép về đã hoàn toàn bị thất bại. Buộc họ phải “đổi mới” thực chất là “đổi cũ”, tồn tại nhờ tiếp tục kết hợp sự cai trị hà khắc của một chế độ độc tài với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Thua từ chỗ đứng trong
lòng người. Từ cuộc “bỏ phiếu bằng chân” (khái niệm foot voting từ thời Charles Tiebout, Ronald Reagan lại vừa được nhắc lại mới đây trong bài viết của tác giả Nguyễn Hưng Quốc) của hàng triệu con người bỏ nước ra đi ngay sau khi đảng và nhà nước cộng sản tưng bừng ăn mừng chiến thắng chưa lâu, và cho đến tận bây giờ người dân vẫn tiếp tục tìm cách này cách khác để ra đi. Với kẻ thù một thời là “đế quốc Mỹ” nay họ buộc phải quay lại cầu thân xin xỏ, với những người dân miền Nam trước đây họ không sao hòa hợp hòa giải hoặc thu phục được nhân tâm, còn với gần 90 triệu người dân hôm nay thì đang ngày càng mất lòng tin vào họ.

Thua từ vị trí, thế đứng, tầm mức phát triển về mọi mặt của VN so với các nước. Thua trong cái nhìn của thế giới đối với chân dung của nhà cầm quyền VN từ những hồ sơ tệ hại về nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do dân chủ cho người dân…

Thua cả trong văn hóa nghệ thuật, giáo dục, con người….Sau 37 năm, những tác phẩm nào của một thời được tung hô là dòng văn học nghệ thuật cách mạng hiện thực xã hội chủ nghĩa nay còn tồn tại theo thời gian?

Lịch sử dù có bị bóp méo, làm sai lệch, bưng bít đến đâu, nhưng thời gian và thực tế sẽ dần dần trả lại tất cả. Đó là lý do vì sao ngày càng có nhiều người đứng về phía “triệu triệu người buồn” (từ ý câu nói của Cố Thủ tướng nước Cộng hòa XHCN VN Võ Văn Kiệt), viết lên những tâm tư trăn trở day dứt băn khoăn mỗi khi ngày 30 tháng Tư lại về.

Không chỉ là những con người đã từng sống, dính líu đến chế độ miền Nam Cộng Hòa, những người có ân oán với chế độ cộng sản hiện nay, hay những con người đã phải rời nước ra đi ở thời điểm này thời điểm khác, vì không thể chịu đựng hoặc không chấp nhận chế độ cộng sản.

Mà là những con người đã từng sinh ra và lớn lên ở miền Bắc trước 1975, từng cầm súng chiến đấu dưới lá cờ đỏ sao vàng cho một lý tưởng mà họ thực sự tin vào thời điểm đó là “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, đánh để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, để xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa công bằng và tốt đẹp”. Thậm chí họ từng ở trong hàng ngũ tướng tá, lãnh đạo cao cấp, hoặc từng là thành phần con cưng của chế độ.

Là những con người thuộc thế hệ hậu chiến, sinh ra và lớn lên hoàn toàn trong lòng chế độ hôm nay, có rất ít hoặc hầu như không có chút mặc cảm nào với cuộc chiến đã qua, hàng ngày vẫn nghe những lời tuyên truyền một chiều của đảng và nhà nước cộng sản trong bao nhiêu năm…

Những con người ấy cũng đã nhận ra đúng sai, sự thật. Hãy đọc những bài viết trên báo chí ở nước ngoài, các diễn đàn độc lập, blog cá nhân…để thấy sự phong phú, đa dạng của những người vừa nhập thêm hàng ngũ “triệu triệu người buồn”, cứ mỗi 30 tháng Tư năm sau lại đông hơn, đa dạng hơn. Dù mức độ và cách thể hiện khác nhau, họ đều bày tỏ nỗi đau xót, nuối tiếc cho những bước đi sai lầm của đất nước mà đôi khi trong đó có cả sự đóng góp của chính mình và cha ông mình bởi một thời ngây thơ bị lừa, đồng thời trăn trở ưu tư trước tình hình hiện tại, lo lắng cho vận mệnh và tương lai của đất nước.

Tôi đồng ý với nhà báo Lê Diễn Đức, đồng thời đây cũng chính là câu tôi thường tự nói như an ủi khi nghĩ về đất nước không may mắn của mình, rằng mỗi con người có định mệnh của mình, mỗi đất nước cũng có vận mệnh riêng.

Vận mệnh của VN thật nghiệt ngã, cay đắng. Quá nhiều những sự chọn lựa sai, những bước đi sai lầm.

Nhưng có ích gì nếu bây giờ chúng ta lại nhắc đến những chữ “nếu”…

Tôi tin rằng nếu ý chí của một con người có thể thay đổi số phận của người đó thì điểu này lại càng đúng, với một dân tộc, một đất nước.

Sau 37 năm dài. Dù VN vẫn chưa có được một phong trào dân chủ mạnh mẽ xuất phát từ sự đoàn kết của quần chúng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ như các nước Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa cũ, các nước Trung Đông và Bắc Phi trong phong trào cách mạng hoa nhài mới đây…Dù VN vẫn chưa có những đảng phái chính trị đối lập đủ mạnh với những khuôn mặt có đủ uy tín để đương đầu với nhà cầm quyền, buộc họ phải tự thay đổi như Miến Điện…Nhưng lòng dân chán ghét chế độ, mong muốn một sự thay đổi và một tương lai tốt đẹp hơn cho đất nước thì đã quá đủ.

Không ai có thể cứ sống mãi trong một chế độ độc tài, một xã hội tồi tệ mà không vùng dậy tìm lối thoát cho mình, cho người khác và cho con cháu mai sau.

Và tôi tin rằng nếu một ngày nào đó chế độ này sụp đổ, và một chế độ tự do dân chủ được thiết lập trên quê hương VN, sẽ không bao giờ có hiện tượng hàng loạt tướng lĩnh cao cấp trong quân đội cộng sản sẽ tự sát cùng với chế độ như đã từng xảy ra với miền Nam Cộng Hòa, mặc dù chế độ đó vẫn có những ông tướng, tá hèn nhát bỏ lính chạy trước để bảo vệ mạng sống của mình. Sẽ không có hiện tượng hàng triệu con người sau khi đã phải rời bỏ đất nước và đã có một cuộc sống bình yên, thậm chí sung túc, đã là công dân của nước khác, nhưng vẫn mang theo lá cờ của cái chế độ đã bị bức tử đó suốt bên mình bao nhiêu năm. Sẽ không có những bài viết, những nỗi đau, tiếc cho sự sụp đổ của chế độ này như đã từng có đối với ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Như đã từng xảy ra ở Liên Xô và các nước do đảng cộng sản lãnh đạo trước đây ở Đông Âu. Không một ai nuối tiếc những năm tháng dưới chế độ do đảng cộng sản nắm quyền, họ thẳng tay vứt nó vào sọt rác, bước sang một trang sử mới. Và rõ ràng ở những quốc gia này đảng cộng sản không có mảy may hy vọng gì quay trở lại.

Đôi khi cũng phải an ủi trong nỗi bất hạnh có cái may. VN phải trải qua những năm tháng sống dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản để không bao giờ còn ai có bất cứ chút ảo tưởng nào vào lý thuyết, chủ nghĩa cộng sản, vào đảng cộng sản cả.

Mặc dù cái giá ấy là quá đắt!

 

Song Chi

Phạm Đình Trọng – Đất gọi

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Việt Nam on 2012/04/30 at 15:16

1

Cả nước đang sôi sục, nóng bỏng, đang ầm ầm dậy sóng những đoàn người khiếu kiện và đang cuồn cuộn những con sóng ngầm phẫn nộ trong lòng người vì đất đai.

Tiếng súng Đoàn Văn Vươn nổ ở Tiên Lãng, Hải Phòng, phá tan sự thanh bình, êm ả ngàn đời của làng quê Việt Nam cũng vì đất đai.

Sự biến ở Văn Giang, Hưng Yên, hàng ngàn công an trập trùng mũ sắt, khiên đồng, súng đạn, dùi cui trấn áp vài trăm người dân lương thiện, lam lũ cũng vì đất đai.

Vụ án ngang trái, oan khiên ở nông trường Sông Hậu, Cần Thơ cũng vì đất đai.

Đất đai đã trở thành sự xung đột giữa quyền sử dụng đất của người dân được ghi trong Hiến pháp: Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài (Điều 18, Hiến pháp 1992) với những nhóm quyền lực kinh tế kết hợp với quyền lực chính trị hối hả tìm kiếm lợi nhuận kếch xù, mau lẹ và dễ dàng bằng đất đai.

Đất đai đã trở thành sự xung đột ngay trong những văn bản pháp luật. Thế lực kinh tế liên kết với thế lực chính trị liên tục sửa Luật đất đai để họ dễ bề chiếm đoạt đất đai, làm giầu trong phút chốc bằng đất đai. Càng sửa, Luật đất đai càng xa rời Hiến pháp, ngang nhiên vi phạm Hiến pháp, càng vô hiệu Hiến pháp, đất đai càng vô chủ, càng kích thích lòng tham, càng có thêm nhiều dự án treo đầu dê bán thịt chó về đất đai.

Đất đai đã trở thành sự xung đột giữa mục đích tối cao của nhà nước là an dân với những người nhân danh nhà nước chiếm đoạt mảnh đất sống ổn định của dân, gây sự xao xác, bất bình trong lòng dân, gây ra sự phản kháng mạnh mẽ, sự bùng nổ rộng rãi trong xã hội, gây đổ vỡ lòng tin của người dân với nhà nước.

Đất đai là nơi chỉ ra rõ nhất bản chất một nhà nước. Nhà nước ứng xử với đất đai như ở Tiên Lãng, Hải Phòng, như ở Văn Giang, Hưng Yên mà tự nhận là nhà nước của dân, do dân, vì dân thì đó là sự giả dối.

Đất đai đã làm băng hoại đạo đức xã hội, phá nát kỉ cương phép nước. Vì đất đai, quyền lực ngang nhiên chà đạp lên pháp luật, vất bỏ đạo đức làm người, coi thường cả đạo lí xã hội.

2

Đất đai gây đổ vỡ trong lòng người; đất đai làm rối loạn xã hội; vì đất đai, quyền lực thản nhiên chà đạp lên pháp luật thể hiện sâu sắc nhất trong vụ án nông trường Sông Hậu, Cần Thơ và trong vụ nhà nước dùng bạo lực chiếm đất của dân Văn Giang, Hưng Yên giao cho doanh nghiệp vẽ lên những dự án mĩ miều: đổi đất lấy hạ tầng nhưng thực chất chỉ là kinh doanh bất động sản mà quyền lực nhà nước trở thành đồng vốn quan trọng nhất trong loại kinh doanh đó.

ĐẤT NÔNG TRƯỜNG SÔNG HẬU, CẦN THƠ – NAM BỘ

Hai người Anh hùng, hai thế hệ cha con nối tiếp nhau lao động tận tụy, quên mình đã biến mảnh đất phèn Sông Hậu đến cỏ cũng không mọc nổi, người không thể sống được, chỉ có lơ thơ lăn lác hoang hóa thành mảnh đất bát ngát đồng lúa, xum xuê vườn cây trái. Hàng ngàn gia đình nông dân không có đất gieo trồng, sống lay lắt, nghèo khổ, lang bạt, nay có nơi an cư, trở thành nông trường viên nông trường Sông Hậu, có cuộc sống khấm khá và đang ngày càng giầu có.

Nhưng mảnh đất không có sự sống nay đã trở thành đất sống, mảnh đất nghèo nay đã trở thành đất giàu lại lọt vào tầm ngắm, lại là nỗi thèm khát của những phi vụ kinh doanh nhà đất. Người đàn bà Anh hùng giám đốc nông trường Sông Hậu liền nhận được gợi ý giao lại đất nông trường để chính quyền sử dụng đất vào những dự án khác mà ai cũng biết đó là những dự án đô thị hoành tráng.

Đất nông trường Sông Hậu đã là đất sống ấm no của hiện tại, đất khát khao hi vọng, đất rực rỡ trong tương lai của hàng ngàn gia đình nông trường viên. Vì những gia đình nông dân bình dị, thân thiết như ruột thịt đó, người đàn bà Anh hùng giám đốc nông trường không thể giao đất theo gợi ý của quyền lực. Người Anh hùng liền trở thành tội phạm.

Ủy viên trung ương đảng, Bí thư tỉnh ủy định tội rồi lệnh cho công an điều tra, viện Kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử! Tòa sơ thẩm rồi tòa phúc thẩm có sẵn bản án trong túi đều tuyên người đàn bà Anh hùng tám năm tù. Đó là lần thứ nhất pháp luật bị quyền lực chính trị khinh bỉ, chà đạp trên mảnh đất Sông Hậu!

Người Anh hùng bị tù oan khuất chống án. Lương tâm xã hội rầm rộ lên tiếng. Cơ quan quyền lực chính trị gồm mười bốn thành viên liền nhóm họp xem xét biểu quyết số phận người Anh hùng Sông Hậu. Mười một phiếu biểu quyết dừng vụ án, miễn truy tố người Anh hùng Sông Hậu. Cơ quan quyền lực chính trị đã làm thay cả tòa án của nhà nước, xóa tội cho người đàn bà Anh hùng Sông Hậu. Quyền lực chính trị cấp tỉnh chỉ định tội và lệnh cho công an, tòa án làm án buộc tội người Anh hùng Sông Hậu. Nay quyền lực chính trị cấp cao còn xử thay cả quan tòa! Đó là lần thứ hai pháp luật bị quyền lực chính trị ngang nhiên khinh miệt, chà đạp trên mảnh đất Sông Hậu!

Vụ án nông trường Sông Hậu chỉ xô đẩy mấy người trong ban giám đốc nông trường Sông Hậu vào vòng lao lí oan khiên, ngang trái nhưng đã bộc lộ hai điều lớn lao hệ trọng của xã hội, liên quan tới mọi số phận người dân.

Một là, Đất đai đã trở thành một thế lực ghê gớm, khuynh đảo cả pháp luật. Đất đai đã tạo ra một lớp người giầu có và một lớp quan chức hối hả tham nhũng bằng đất đai. Hai lớp người này lập tức liên kết với nhau làm thay đổi cả bản chất nhà nước, từ nhà nước của dân, do dân, vì dân trở thành nhà nước đối lập với dân.

Hai là, Từ đất đai, người dân phải cay đắng nhận ra là họ đang phải sống ở thời không có pháp luật, quyền lực chính trị đứng trên pháp luật, làm thay pháp luật mà vụ án ở nông trường Sông Hậu là minh chứng.

ĐẤT VĂN GIANG, HƯNG YÊN – BẮC BỘ

Ruộng vườn Văn Giang, Hưng Yên trên tầng đất phù sa sâu cả chục mét do con sông Hồng màu mỡ bền bỉ bồi đắp từ hàng triệu năm tạo lên. Hoa màu đang tươi tốt, cuộc sống đang yên ổn trên đất đai của tổ tiên từ ngàn đời để lại, bỗng ầm ầm ô tô chở công binh, công an đến, rầm rập công an dàn hàng ngang, nổ súng, vung dùi cui, xả đạn hơi cay vào dân. Những người nhân danh nhà nước đã biến cánh đồng của màu xanh bình yên thành bãi chiến trường mù mịt khói lửa, quyết ăn thua đủ với dân, quét dân ra khỏi đất hương hỏa cha ông. Rồi máy gạt, máy ủi gầm rú nghiến nát hoa màu như thời nô lệ năm 1944 lính Nhật hung hãn kéo đến quật nát lúa đang ngậm đòng bắt dân nhổ lúa, trồng đay phục vụ cuộc chiến tranh của Nhật.

Người dân cả mấy làng ở Văn Giang, Hưng Yên kéo ra đồng suốt đêm đốt lửa giữ đất như thời hồng hoang con người đốt lửa xua bầy thú dữ. Bầy thú bốn chân thời tiền sử đã lùi vào quá khứ hàng ngàn năm nhưng ngày nay người dân tay không giữ đất lại phải đối mặt với bầy công cụ hai chân, đầu mũ sắt, tay khiên, tay súng còn hung dữ gấp ngàn lần bầy thú hồng hoang vì bầy công cụ đông tới hàng ngàn tên. Sự kiện đất đai ở Văn Giang, Hưng Yên thực sự đưa xã hội văn minh trở về thời hoang dã xa xưa, bạo lực hung hãn trút xuống đầu dân, bạo lực ngạo nghễ giành chiến thắng trên nỗi đau khổ, uất nghẹn căm phẫn của người dân.

Trong xã hội dân sự yên bình, sự chiến thắng của bạo lực nhà nước với dân lành đồng nghĩa với cái thua của pháp luật, cái thua của đạo lí, cái thua của văn hóa trị nước an dân: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Pháp luật thua, đạo lí thua, văn hóa trị nước thua vì nhà nước đã không đứng về phía nhân nghĩa, không đứng về phía công bằng xã hội, không đứng về phía số đông người dân lao động lương thiện mà đứng về số ít người có của, những nhà đầu tư trong nước, ngoài nước. Bạo lực nhà nước đã được huy động tối đa ra trấn áp dân, chiếm bằng được mảnh đất sống cuối cùng của dân, giao cho người có của xây nhà kinh doanh, làm giầu trên nỗi nghèo đói, bất an vô định của số đông dân lành.

Đại diện nhà nước cấp tỉnh, ông chánh văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh Hưng Yên nói rằng chỉ có 30% diện tích đất của Dự án Ecopark Văn Giang dành cho xây nhà kinh doanh, còn lại là đất dành cho phát triển giao thông, công trình phúc lợi, cây xanh nên Dự án Ecopark Văn Giang là dự án đổi đất lấy hạ tầng chứ không phải dự án thương mại kinh doanh đơn thuần. Đó chỉ là cách nói lấp liếm, nói lấy được của thứ quan gian “muốn nói gian làm quan mà nói”. Đường sá, cây xanh, công trình phúc lợi xã hội bao quanh những tòa nhà cao tầng của khu dân cư chỉ làm cho những căn hộ trong khu dân cư có giá cao chót vót và bán đắt như tôm tươi mà thôi. Tỉ lệ cây xanh càng cao, những con đường thênh thang càng kéo những thành phố lớn lại gần thì khu dân cư càng đắt giá và nhà đầu tư càng lời lớn mà thôi.

3

Những cuộc chiến tranh đẫm máu liên miên suốt gần nửa thế kỉ, từ 1945 đến 1989, chiến tranh chống Pháp, chiến tranh chống Mĩ, chiến tranh chống Pôn Pốt diệt chủng, chiến tranh chống Đại Hán bành trướng, chiến tranh giai cấp sắt máu trong lòng dân tộc… làm cho đất đai đồng ruộng Việt Nam đã thấm đẫm mồ hôi lại thấm đẫm máu người nông dân. Gần nửa thế kỉ chiến tranh, nhà nước đã huy động đến kiệt cùng sức người, sức đất của người nông dân. Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người cho cơn khát của chiến tranh. Cả trong cuộc chiến tranh giai cấp sắt máu, số nông dân bị đôn lên địa chủ và bị bắn giết cũng phải đủ chỉ tiêu do giai cấp vô sản đề ra. Người nông dân phải chịu hi sinh mất mát lớn nhất cho chiến tranh, cho chiến thắng, cho sự sống còn của nhà nước Việt Nam hôm nay.

Sống còn bằng máu người nông dân, thế mà ngày nay nhà nước Việt Nam lại giành giật mảnh đất thấm đẫm máu người nông dân giao cho những nhà đầu tư để họ kinh doanh kiếm lời, đẩy người nông dân vào cảnh khốn cùng không còn đất sống. Đó là sự phản bội, vô ơn, táng tận lương tâm, không còn biết đến đạo lí làm người và văn hóa cai trị.

Máu người không phải nước lã. Máu người thiêng lắm. Mảnh đất đã thấm đẫm mồ hôi và máu người nông dân, mảnh đất ấy có hồn thiêng. Hồn thiêng của đất đã gọi và đang khẩn thiết gọi những người nông dân để họ biết phải làm gì giữ đất. Đất gọi và tiếng súng Đoàn Văn Vươn đã dõng dạc trả lời. Bao giờ những người nông dân cũng là nơi tiềm ẩn sức mạnh quyết định của mọi cuộc cách mạng xã hội.

Tác giả gửi ngày 29-4-12

Source: Viet-studies.info

30/4/1975 – 30/4/2012

In Cộng Đồng, Lịch Sử, Việt Nam on 2012/04/28 at 16:36

 

BBT: Gởi bạn đọc dòng âm nhạc tưởng niệm ngày 30 tháng 4 năm 1975.

 


(Về bài viết) Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Thanh Phượng và Ecopark

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Việt Nam on 2012/04/25 at 12:46

Dân Làm Báo – Sau khi tìm hiểu và so sánh thêm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau được công bố trên mạng, những dữ kiện mà Dân Làm Báo có được cho thấy có hai công ty Việt Hưng: (1) Công ty cổ phần phát triển bất động sản Việt Hưng (là công ty đối tác chiến lược của VietCapital Bank do Nguyễn Thanh Phượng làm chủ tịch HĐQT); (2) Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng (chủ dự án Ecopark).  Xin đọc tiếp ở link này: Về bài viết “Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Thanh Phượng và Ecopark”

 

 

Dân Làm Báo– Nguyễn Thanh Phượng là Chủ tịch của 4 công ty: VietCapital Bank, công ty quản lý quỹ Bản Việt, công ty chứng khoán Bản Việt và công ty bất động sản Bản Việt. Đó là thông tin chính thức được công bố.

Trên trang blog của anh Huỳnh Ngọc Chênh, đăng tải một tài liệu “Nghị quyết Đại hội Cổ đông thường niên 2012 của công ty Bản Việt” đề ngày 20 tháng 4, 2012 với nội dung:
VietCapital Bank phát hành quyền chọn mua cổ phiếu cho Công ty CP Phát triển Bất Động Sản Việt Hưng (Vihajico). Trong văn bản này Việt Hưng được ghi là đối tác chiến lược của VietCapital Bank và VietCapital Bank phát hành quyền chọn mua cổ phiếu cho đối tác chiến lược Việt Hưng. Việt Hưng nắm 5.670.000 quyền, mỗi quyền là 1000 đồng Việt Nam, tổng cộng giá trị của cổ phiếu là 5,6 tỷ VND.
Người ký văn bản là Nguyễn Thanh Phượng, Chủ tịch Hội đồng quản trị của VietCapital Bank.

Công ty Việt Hưng chính là Công ty Đầu tư và Phát triển đô thị Việt Hưng (Vihajico) – Chủ dự án Ecopark.
Nguyễn Thanh Phượng là con gái của Nguyễn Tấn Dũng.
Nguyễn Tấn Dũng là Thủ tướng nước CHXHCNVN, người đã ký văn bản 1495/CP – NN cho dự án đô thị Ecopark – Văn Giang và giao cho Công ty Đầu tư và Phát triển đô thị Việt Hưng (Vihajico) làm chủ đầu tư.
Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thường niên công bố hôm 20/4/2012 do Nguyễn Thanh Phượng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Bản Việt ký cũng đã vừa được đăng tải bởi BBC:

Tóm lại: Nguyễn Tấn Dũng đã dùng quyềh hành Thủ tướng để ký giấy trao dự án EcoPark cho công ty Việt Hưng và công ty này là đối tác chiến lược của VietCapital do Nguyễn Thanh Phượng – con gái của ông ta làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị.
Sự việc chỉ có dừng lại ở đó?
Câu hỏi kế được đặt ra là Việt Hưng chỉ là đối tác chiến lược hay chính Nguyễn Thanh Phượng lại là một trong những thành phần lãnh đạo của Việt Hưng.
Các trang mạng lề trái đang đăng tải thông tin về công ty này trong đó Tổng Giám đốc của Việt Hưng (Vihajico) là Đào Ngọc ThanhChủ tịch Hội đồng quản trị là Nguyễn Thanh Phượng.
Tuy nhiên, dữ kiện trên thông tin của Ecopark vào ngày 21.08.2011 “Vihajico kỷ niệm 8 năm ngày thành lập (19/8/2003 – 19/8/2011)”, thì chủ tịch HĐQT của Việt Hưng (Vihajico) là ông Lương Xuân Hà.
Dữ kiện về ông Lương Xuân Hà cũng tìm thấy trong bản tin Bộ trưởng Bộ quốc phòng Phùng Quang Thanh về thăm dự án Ecopark.
Và sơ đồ cơ cấu tổ chức của Vihajico: (Cập nhật ngày: 01/12/2010)
Hiện nay, nếu có sự thay đổi nhân sự và Nguyễn Thanh Phượng trở thành Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị của công ty Việt Hưng, chủ đầu tư dự án Ecopark thi thông tin này chưa được chính thức công bố.

Tạm thời có thể kết luận: Nguyễn Tấn Dũng đã dùng quyềh hành Thủ tướng để ký giấy trao dự án EcoPark cho công ty Việt Hưng và công ty này là đối tác chiến lược của VietCapital do Nguyễn Thanh Phượng – con gái của ông ta làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị.
Bạn đọc có thêm thông tin hoặc dữ kiện liên quan xin gửi về lienlacdanlambao@gmail.com

Toàn văn bản “”Nghị quyết Đại hội Cổ đông thường niên 2012 Công ty Cổ phần chứng khoáng Bản Việt (VCSC”

Thùy Linh – Đất vỡ

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2012/04/24 at 18:22

Tản văn của Thùy Linh

Theo blog Thùy Linh

Đêm qua cả ngàn nông dân úp mặt vào Đất để lắng nghe lần cuối tiếng thì thầm từ lòng sâu, nơi hồn thiêng cha ông gửi vào đó bao đời và mai đây sẽ chìm dưới những căn hộ cao tầng sang trọng cho những kẻ lắm tiền nhiều chức.

Họ đốt lửa ngồi sát bên nhau im lặng thổn thức trước một cuộc chia ly không có vé khứ hồi. Bất lực cô đơn không tấc sắt để chống lại bạo quyền và biết sẽ là chiến bại nhưng vẫn muốn bám chặt mười ngón tay lên mảnh ruộng này lần cuối…

Đêm không ngủ cùng Đất Mẹ bụng rỗng mắt hoa tâm trí hoang mang nghèo đói hiện tiền không tương lai nào dành cho họ.

Đêm nay Đất dưới chân bỗng biến thành trái tim bị dẫm đạp giày xéo vỡ tung thành trăm mảnh. Lửa thiêu đốt ngút trời tiếng khóc xé vành môi bà mẹ chị em tôi những người bán mặt cho đất bán lưng cho trời để kiếm hạt thóc nuôi con khôn lớn đi đánh giặc giữ nước giữ làng. Giờ Làng Nước có rồi nhưng Đất lại bị đưa vào cuộc bán buôn kiếm chác của những kẻ chức quyền tham lam vô độ vô nhân.

Lửa đã cháy và máu đã đổ không phải từ ngoại xâm mà từ những người họ hay gọi là đồng chí. Ôi người dân quê tôi lam lũ nhiều đời sẽ còn bị bần cùng tới khi không còn nước mắt để khóc, không còn máu để chảy trong huyết quản. Ngày mai những thân phận người không còn được bú mớm dòng sữa Đất Mẹ sẽ vất vưởng ra thành phố lay lắt kiếm sống qua ngày. Những kiếp sống tàn đời không biết đến ấm no.

Con ơi… Ông bà cha mẹ ngàn lần xin lỗi vì đã không thể giữ lại mảnh đất này… Khi ông bà cha mẹ chết đi con hãy viết trên mộ chí dòng chữ “thế hệ chỉ biết nhân nhượng” là điều các con nên tránh. Con sẽ phải học bước vào đời với hai bàn tay trắng cái đầu lạnh và trái tim máu nóng không biết bước qùi. Con hãy nghi nhớ những gì hôm nay ông bà cha mẹ đã phải chịu đựng thất bại ê chề đớn đau tủi nhục để biết sống và tìm cho mình một lối đi khác. Không còn Đất nhưng tương lai của con phải được gieo trồng trên những cánh đồng của Tự do Hạnh phúc Công bằng Yêu thương.

Đất đang vỡ như trái tim đang vỡ… Từng mảnh tim ứa máu rải khắp quê hương này… Và người ta đang lấy máu Đất để sơn phết những gương mặt Quỉ đang nhảy múa cuồng điên trong cơn khát tiền tài danh vọng.

Đất đã vỡ như trái tim đã vỡ… Tan hoang…

Thôi, hãy quay mặt đi đừng nhìn cơn điên loạn này mà phá hỏng mất tâm hồn. Ông bà cha mẹ cố giữ lấy cho con lòng tốt để đón chờ một tương lai sẽ phải đến nhé con yêu…

 

Đinh Vũ Hoàng Nguyên – Nhà cuối ngõ

In Liên Kết, Tạp văn on 2012/04/07 at 13:42

.

Nghề nghiệp của y là vẽ tranh.

Y thuê một gian trong khu nhà hai gian nằm ở cuối ngõ làm xưởng vẽ, có lối đi và cổng riêng biệt. Chủ nhà này ở nơi khác. Người trong xóm đa phần là dân lao động, rất nhiều cave cũng về thuê nhà ở đấy.

Mụ Điếc tuổi gần năm mươi, bị nghễnh nặng, ở ngay gần kề. Mụ có con nhưng không có chồng, nghề chính là làm thợ may, buổi chiều thì ra ghi lô ở đầu ngõ; cô con gái mụ vừa cưới xong, ở nhà chồng cũng gần đó. Y thường xưng hô với mụ Điếc là bà bà tôi tôi.

Vốn xưởng vẽ của y là nơi lũ bạn bè thường mò đến tụ bạ. Bọn này họ cú, thức đêm hò hét rượu chè inh ỏi, nên những chỗ y thuê ở trước đây thường bị hàng xóm sang phê bình. Giờ thuê được căn nhà mà chủ nhà không ở cùng, hàng xóm lại điếc, y khoái lắm. Gặp mụ Điếc, y hô: “Bệnh điếc vạn tuế!”. Mụ bảo: “Tao làm gì mà phải hạn chế?”.

Mụ Điếc ngồi ghi lô, y đi ngang nói: “Điếc, tên em là một bài ca”. Mụ hỏi: “Cái gì, ba mốt bẩy ba á? đề hay lô?”. Thấy mọi người xung quanh cười, mụ cầm cuốn sổ chạy theo đập đập đánh y bảo: “Thằng chó này chắc lại vừa nói gì đểu!”

.

Ở khu nhà thuê đó một thời gian thì y có thêm hàng xóm mới, là lão Hoán. Lão đến thuê gian bên cạnh, đi chung cổng với y.

Lão Hoán ngoài năm mươi, người lẻo khẻo môi mỏng hớt, gặp gái thì tròng mắt lảo đảo, nhìn gian và dê. Tiểu sử tiên sư của lão chả ai rõ, chỉ biết hiện tại lão kéo nhị trong hội nhạc đám ma.

Hồi lão mới về y hơi dè chừng, sợ nhậu nhẹt đêm hôm lão ý kiến ý cò. Nhưng không, lão chả để tâm. Y rủ lão sang uống rượu vài lần, thành thân tình. Lão bảo với y: “Tao chơi nhạc cụ dân tộc, mày vẽ tranh, lĩnh vực khác nhau, nhưng đều là nghệ sỹ. Tao với mày về đây làm văn hóa cho cái ngõ này”. Y cụng, đáp: “Chứ chả chuyện!”.

.

Lão Hoán thích mụ Điếc ngay từ buổi mới về, rất hay lân la mon men… Mụ Điếc ngồi may, cúi lom khom, lão Hoán lượn ra lượn vào săm soi khe cổ mụ. Có lần lão ghé tai mụ Điếc bảo: “Đằng ấy dựng được vét tông, thế có biết dựng quần đùi không, thì dựng hộ cái!”. Mụ Điếc bảo: “Nỡm, dở hơi, rửng mỡ!”. Lão Hoán đi, mụ lẩm bẩm: “Đồ chó già!”, rồi cười tủm.

Tối, lão Hoán kéo nhị hát:

“Một năm có mười hai tháng ớ ơ…

Một tháng có ba mươi ngày ớ ơ…

Thỉnh thoảng có tháng có ba mốt ngày ớ ơ…

Một tháng có ba ngày phụ nữ không được thắp hương ớ ơ…”

Đoạn, lão ngểnh sang nhà mụ Điếc hát:

“Em Điếc có còn bị kiêng thắp hương ớ ơ…”

Y liền bảo lão: “Bố sang bên đấy hỏi mẹ nó thẳng là em đã mãn kinh chưa, cho nhanh. Nhạc với chả nhẽo! Mà mụ ấy nghe được khối ra!”.

Lão bảo: “Loại mày nghệ sỹ cái cục cứt. Chả lãng mạn gì cả!”, rồi hát tiếp:

“Hôm nào không kiêng thắp hương đừng chốt cửa buồng ớ ơ…”

.

Ở góc sân nhà y có một cái ngách thông ra sau bếp nhà mụ Điếc, phải ép lưng vào tường mà lách mới đi lọt. Một bữa thấy lão Hoán từ trong đó chui ra, đầu tóc đầy mạng nhện. Gặp y lão sững, rồi nói: “Vừa nãy ném con chuột, văng mẹ nó dép trong này”. Y nhìn điệu bộ lão lấm lét, nghi. Một lát y mò vào ngách, đến bếp nhà mụ Điếc thấy có miếng liếp che buồng tắm bị cậy…

Về nhà, y hát:

“Mụ Điếc có tắm thì nhớ đặt bẫy ớ ơ…

Sau liếp có con chuột già ớ ơ…”

Lão Hoán nhăn nhở: “ Tổ cha mày!”, rồi thầm thì: “Này, con mẹ Điếc này hàng họ còn ngon bằng tỉ mấy con cave ngoài kia mày ạ!”.

.

Ngà là con gái mụ Điếc, nhưng không hề điếc. Ngà lấy chồng ở ngõ bên cạnh, chưa có con. Buổi tối Ngà bán bún ngan vịt ngay cửa nhà.

Chồng Ngà là tổ trưởng tổ kéo đường dây điện, thường đi công trình xa. Thằng này cục. Ngà lại là loại đáo để. Hai vợ chồng hay choảng nhau.

Có gã hàng xóm cạnh nhà Ngà buổi tối sang ăn bún khuya, thấy Ngà tươi, mỡ, chồng lại đang đi vắng… Nhìn quanh quán thấy chẳng còn ai, gã hàng xóm lúc đỡ bát bún cố chạm tay vào vú Ngà, bảo: “Thêm cho anh tí thịt thừa ở ngực nhé!”. Ngà đang cầm muôi nước dùng nóng chan luôn vào đũng quần gã…

Gã hàng xóm bỏng, mà không dám kêu ai. Hàng tuần giời đi đứng như thằng sa đì.

Chồng Ngà đi công trình về, ngủ mê mệt. Ngà mở điện thoại chồng thấy có ảnh chụp chồng vừa hát, vừa lúi húi móc rốn mấy cô em môi đỏ trong hàng karaoke. Thằng chồng đang ngáy há hốc mồm, Ngà nhặt chiếc guốc, nhè mồm chồng bổ, chửi: “Thằng đĩ, bà ở nhà giữ bướm cho mày, hầu hạ cả bố mẹ mày để cho mày đi sướng bậy à?”. Thằng chồng rách môi, gẫy nửa răng cửa liền tóm tóc vợ, dúi, lên gối uỳnh uỵch. Ngà thò tay tóm dái chồng bóp nghiến, chồng phải nhả tóc.

Ngà bỏ về nhà mẹ đẻ. Thằng chồng Ngà lôi hết đống guốc của vợ chặt sạch.

Sáng hôm sau thằng này đi làm, dái đau, chân bước lạng dạng. Ra ngõ, chạm mặt gã hàng xóm, thấy gã kia nhìn trộm mình lấm lét, lại cũng bước lạng dạng hệt mình, mới bảo: “Ông tương bỏ mẹ mày giờ! Mày thích nhại ông à?!”.

.

Từ hôm Ngà về ở cùng mụ Điếc, lão Hoán ít lân la nhà mụ vì Ngà tỏ ra ghét lão. Ngà bảo mặt lão gian. Mụ Điếc thỉnh thoảng sang khu bên này, đứng dựa cửa nhà lão Hoán nói chuyện ê a ê a, như phường dở hơi.

Ngà mông to ngực to, lúc ngồi quạt than trước cửa nhà, đùi ép vào ngực, trồi lên ở cổ áo hai ụ trắng phau. Lão Hoán đi ngang, mắt liếc chân bước, đâm sầm đầu vào gốc dâu da xoan cạnh đường, kêu: “Úi giời!”. Ngà lẩm bẩm: “Thằng dê già, cho chết! Có ngày bà xẻo, vứt cho chó ăn!”. Vào nhà Ngà nói với mụ Điếc: “Bà bô đừng cho lão Hoán sang nhà, mà cũng đừng qua chuyện trò với lão bên ấy nữa!”. Mụ Điếc ơ kìa, nhưng mà,… sao sao…

.

Mẹ con mụ Điếc nói chuyện với nhau thường oang oang.

Bữa ấy y đang ngồi cà kê với lão Hoán ở sân nhà thì nghe thấy tiếng mụ Điếc vọng sang: “Bếp than vẫn đỏ đấy, con Ngà kia có tắm thì vào rót nước đi, để tao còn đun tiếp”.

Lão Hoán liếc trộm y. Y cũng liếc lão. Cả hai vơ vẩn, chuyện chả còn nếp còn tẻ. Biết thừa đầu óc nhau!

Một lát y nói: “Bố con mình làm nghệ thuật mà thỉnh thoảng không đi thưởng thức cái đẹp thì tài năng nó thui chột mất!”. Lão bảo: “Chí lý!”, rồi co cẳng chạy ra chỗ ngách quên cả xỏ dép, định chui vào trước. Nhưng y khỏe, cầm đít lão quăng ra.

Trong buồng tắm, Ngà đang dội nước lên người.

Lão Hoán không chen được với y để nhòm, đứng bên cạnh sốt ruột, hết đẩy lại huých, rồi năn nỉ: “Kính lão đi mày ơi!”,… rồi lầm bầm chửi: “Nghệ sỹ cái cục cứt gì mày, tham như mõ!”. Ngà đang kì đùi, bỗng nhiên ngừng, tai dỏng mắt đảo…

Y vội thụp xuống lách sâu vào trong ngách. Lão Hoán chỉ đợi thế, hí hửng chen lên bậy liếp thò mặt vào… thì một xô nước mầu trắng nhờ nhờ tạt ra. Nhà mụ Điếc nuôi lợn, có thùng gom nước gạo lẫn thức ăn thừa, thứ nước ấy giờ long tong chảy trên mặt lão Hoán. Tóc tai lão nhoe nhoe mẩu rau dưa, mảnh xương cá… Mùi chua khẳm. Lão co mồm văng tục , thì sực nhớ, im thít.

Y và lão lách ra. Lão Hoán cuống vấp dúi dụi, chân sục vào cống.

Ra khỏi ngách, trông lão Hoán như ngợm. Y bảo: “Hành trình tìm tòi cái đẹp gian khổ quá bố nhỉ!”. Lão than: “Tao mới chỉ thấy gian khổ, chứ đã kịp thấy tí tẹo đẹp nào đâu!”

.

Lão Hoán cởi truồng bên bể nước trong sân, lão vừa múc nước dội người, vừa lẩm bẩm rủa Ngà là đồ cứt trâu. Đang tắm thì Ngà đến ngoài cổng chửi.

Ngà cầm kéo, miệng chửi, tay vung vẩy kéo đánh nhịp, réo đích danh “thằng Hoán”. Ngà bảo sẽ thiến con dê già, sẽ nhét đầu con dê già vào chỗ tối tăm của “cái đẹp”. Có hai con chó chầu chực đấy cũng góp mồm sủa.

Cánh cổng chỉ có chiếc ổ khóa không bấm móc hờ lỗ chốt, Ngà thò tay tìm cách mở…

Lão Hoán ôm háng khư khư, mặt mũi nhớn nhác.

Y nấp trong nhà nhòm ra. Y cũng chẳng muốn chạm mặt Ngà!

Ở góc sân có bức tường, phía bên kia là con đường chạy dọc sông Tô Lịch, y lẻn ra, trèo lên tường. Lão Hoán chạy lại níu chân y, nói: “Mày mày… mày phải ở lại làm chứng là tao chưa kịp thấy tẹo gì của nó!”, y bảo: “Nó có kéo, con làm chứng cho bố để nó xẻo của con à!”, lão Hoán chửi: “Loại mày nghệ sỹ cái cục cứt, hèn lắm!”. Thấy y chuẩn bị nhẩy xuống bên kia tường, lão Hoán hớt hải: “Thôi thôi mày kéo cho tao lên với!”. Lúc ngồi được lên tường, lão lập cập: “Bọn mình cùng nghệ sỹ hoạn nạn đừng bỏ nhau!”.

Ngà đã mở được cổng, đang vào.

Y nhẩy xuống con đường ven sông Tô Lịch. Phía xa có mấy bà đồng nát tong tẩy đi lại… Lão Hoán không dám nhẩy theo vì chưa mặc quần. Lão bò lổm ngổm trên tường, cục bìu ve vẩy như tai voi, đến cuối tường có cái ống máng thì lão đu người leo. Trên đó là trần nhà mụ Điếc.

.

Xâm xẩm tối, y mò về nhà. Một lát, thấy lão Hoán mặc cái quần lửng hoa từ trên tường trèo xuống. Ở nhà bên kia tiếng Ngà đang réo: “Bà Điếc ơi, bà Điếc ơi…”, Ngà gắt: “Đến giờ ghi lô rồi mà cái nhà bà này lại biến đi đâu không biết?!”.

.

Buổi tối, y và lão Hoán uống rượu. Lão vừa uống vừa cười lủm mủm. Rồi lão kể.

… Trần nhà mụ Điếc có mấy tấm chăn đang phơi, lão liền chui vào. Vừa vén chăn lên thì gặp mụ Điếc.

Mụ này vốn nấp trong chăn nhòm lão Hoán tắm; lúc lão và y trèo tường, do khuất, mụ không biết… Giờ, đột nhiên, thấy lão đứng cạnh, cởi truồng.

Mụ Điếc “ối giời ơi”, mụ vơ cái gáo nhựa úp vào mặt. Lão cuống, lão giật cái gáo trên mặt mụ Điếc đem úp vào háng. Mụ Điếc chẳng vừa, liền giằng lại gáo đem úp lại mặt… Lão bèn kéo thốc mụ vào căn chòi chứa đồ cũ.

Mụ Điếc kêu: “Làng nước ơi, Hoán già hiếp tôi làng nước ơi!…”. Lão nói: “Lạy bà, bà mà kêu thế thì người nhà bà thịt tôi như ngan như vịt à!”. Mụ Điếc giơ hai nách lên ngửi, rồi mụ dí nách vào mũi lão bảo: “Thịt thế này mà hôi như ngan như vịt à!”, lão cãi: “Tôi bảo là bà nhỏ mồm kẻo con Ngà nó thịt tôi, chứ đâu mà bảo thịt bà hôi!”. Mụ Điếc “thế à thế à”, rồi mụ thì thầm hỏi: “Cái con Ngà nó đang chửi gì thế hả ông?”. Lão không đáp, lão xấn xổ. Mụ liền lí nhí: “Ối làng nước ơi, Hoán già nó đang… nó đang… hiếp tôi!”…

Y nghe xong, rót rượu, chắp tay mời lão, nói: “Đáng đời con Ngà. Nó chửi được bọn mình thì bọn mình trị lại mẹ nó. Bố vừa rửa nhục cho đàn ông nước Nam!”. Lão Hoán cười hầng hậc: “Thấy tao cao thâm chưa?”, uống cạn, rồi lão vênh váo: “Người xưa bảo bất độc cái gì gì mà phi hảo hán, mày nhỉ?!”

.

Chồng Ngà là thằng du côn. Sau hôm vợ bỏ đi, tuyên bố gặp Ngà ở đâu là bẻ răng cắt lưỡi. Ngà nghe kể thì cười khẩy, nhạt.

Ngà về bên này ở được hai tuần.

Hôm lão Hoán đi đám về, gặp thằng chồng Ngà đứng ở cổng nhà y nhòm sang nhà mụ Điếc, bộ dạng rất khả nghi. Thấy lão liếc liếc mình, nó hỏi: “Ông lác à?”. Lão vội cum cúp lủi.

Về nhà, Lão Hoán thẩn thẩn. Chả hiểu nghĩ ngợi thế nào, rồi lão leo ống máng… Lên tới trần nhà mụ Điếc, lão gọi rón rén: “Bà Điếc ơi!”. Không có tiếng trả lời. Lão lại gọi: “Ngà ơi!”…

Cửa trần mở, là Ngà.

Thấy Ngà, lão Hoán lúng búng: “tao vừa gặp chồng mày nó đang rình bên cổng nhà tao. Tao… tao,… định sang bảo mày trốn,…”. Ngà nghe, lẳng lặng. Ngà xuống nhà cầm cái chày dấu sau đít, mở cửa đi ra…

Gặp chồng, Ngà hất hàm: “Muốn gì?”.

Cái thằng du côn ấy thấy vợ thì ú a ú ớ; nghe vợ hỏi, đứng đực; rồi đột ngột nó quì thụp, nó rống lên: “Em ơi, em là vàng của anh không có em đời anh chẳng bằng cái rắm!…”. Mụ Điếc lúc này cũng lăm xăm xách con dao phay từ trong nhà chạy ra. Chồng Ngà đang lem lẻm: “Anh thế với em là anh còn lớ xớ với mấy con vớ vẩn thì…” – thấy mụ Điếc, nó giằng luôn mụ vào, nó nói tiếp – “… có cả mẹ đây làm chứng cho anh, thì… thì điện giật anh nổ, nổ… chết mẹ nó ộc máu!”. Mụ Điếc giãy nảy: “Thằng chó kia, mày rủa gì tao ộc máu?!”.

Lão Hoán nghe lỏm trong nhà liền thì thầm với y: “Thề với mụ Điếc sướng mày nhỉ! Mai tao cũng sang tao thề.”.

.

Ngà về lại với chồng.

Cũng sau buổi đó lão Hoán hàng ngày qua lại với mụ Điếc, ăn ngủ rất hồn nhiên. Nhưng hễ thấy bóng Ngà là lão lủi nhanh như lươn.

Hôm lão Hoán và mụ Điếc đang ăn cơm, đúng lúc ấy vợ chồng Ngà sang, lão không kịp tránh. Chồng Ngà tóm chịt lão Hoán bắt ngồi lại, nó bảo: “Ai khinh thằng này thì cứ bước khỏi cửa!”. Lão sợ lập cập, mặt xám ngoét.

Thằng chồng Ngà lôi trong túi ra chai rượu và bọc lòng lợn bày lên mâm. Y đi ngang, nó thấy, liền lôi vào cùng ngồi. Xong nó tuyên bố với cả nhà là vừa làm được vợ chửa.

Chồng Ngà rót rượu ra mấy chén, bắt lão Hoán và mụ Điếc cụng riêng. Lúc nó cụng với lão Hoán thì bảo “Con kính cụng đại ca!”, trông như diễn tuồng. Ngà đang mang thai, không uống rượu, thấy chồng với lão Hoán bá vai bá cổ thân mật, nguýt: “Cái lũ đàn ông nhà này toàn đồ chập cheng!”.

Lão Hoán chân khẳng khiu, quần đùi rộng, lại nhàu như lò xo, lúc ngồi ăn chim thòi ra mâm. Ngà trở đầu đũa gắp chim lão Hoán, bảo: “Tưởng miếng thịt!”. Lão hoảng, bật nhỏm dậy, cộc đầu vào thành máy khâu. Chồng Ngà đang kê chén rượu lên miệng,… đổ oạch ra cười sặc sụa, sùng sục ho. Mụ Điếc bảo: “Con đĩ kia sao mày vô duyên thế!”.

.

Vợ chồng Ngà về rồi, còn lão Hoán ngồi thủm lủm xó nhà ngắm mụ Điếc dọn bát đũa, mắt mày rất tình tứ. Y bảo: “Bên này giờ tha hồ ấm cúng, nhỉ!”. Lão gật, mắt hấp háy, giống hệt người tử tế. Y lại bảo: “Cái mắt mụ Điếc khéo mà cũng giống con Ngà, bố cứ ngồi hớ hênh, mụ lại trông nhầm thành cuộn chỉ rối, cho mẹ nó nhát kéo… Hoán có mà thành Hoạn”.

Mụ Điếc đang bê mâm, thấy y và lão Hoán nhăn nhăn nhở nhở cười thì ve vẩy cười theo. Rồi mụ lẩm bẩm: “Hai thằng chó này chắc lại vừa nói gì đểu!”.

Hết.

.

Nguồn: Blog Laothayboigia

Dương Thu Hương – Lột trần chế độ CS

In Liên Kết, Tạp văn on 2012/04/05 at 23:16

Nhà văn Dương Thu Hương

Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.

Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy.

Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.

Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. ..

Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?

Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.

Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.

Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha.

Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”.

Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam, nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.

Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.

Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.

Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:

Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . . ”

Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.

Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”?

Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.

Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợ hãi.

Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.

Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó.

Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.

Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.

Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.

Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân nhưcác mợ Tầu.

Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nối tiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.

Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?

Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu để cắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”?

Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.

Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!”

Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?

Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộchính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng?

Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước.

Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.

1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị như vậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.

2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.

Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình.

Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.

Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họlà những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.

Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.

Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh.

Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nhà”

Dẫn hổ về thịt dê nhà

Tại sao lại là hổ và dê?

Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn.

Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽ thấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó.

Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên?

Bauxite ư? Trò lừa đảo!

Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam, tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thếgiới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?

Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.

Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.

Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . . ”

Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà. Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.

Bác chúng em

Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”.

Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.

Nhưng ông Lê Giản đã chết và “Người công an nhân dân”cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.

Tôi chứng minh:

Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.

Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.

Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn!

Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sựchuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân.

Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân.

Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó?

Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉđã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và “Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.

Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.

Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?

Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họ không dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác?

Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứhai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.

Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu.

Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân.

Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họ cũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.

Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ.

Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản đểchủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.

Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (nhưông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .

Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.

Dân Việt :

Ai là dân Việt?

Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia?

Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?

Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.

Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua? Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được.

Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.

Đó là một nhận định sáng suốt.

Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ xâm chiếm Việt Nam. Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.

Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.

Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?

Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam, phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương?

Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tựnguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?

Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.

Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.

Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam. Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “Nam tiến”!

Nam tiến, nam tiến và nam tiến!

Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.

Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta.

Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu?

Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.

Để giữ được non sông, để có thểlà người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, mộtchính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờ Thăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.

Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.

Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.

Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉluỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộlông của chính nó mà thôi.

Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.

Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại sốphận bi thảm của An Dương Vương.

Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội khôngđứng lên cùng với họ.

Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?

DƯƠNG THU HƯƠNG

———————————————–

Tổng Thống Nga Vladimir Putin:

Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu.

Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim.

Tổng Thống Nga Boris Yeltsin :

Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó.

Bí Thư Đảng Cộng Sản Nam Tư Milovan Djilas:

20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim,

40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản, là không có cái đầu.

Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mr. Mikhail Gorbachev:

Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản.

Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.

Nguồn: Đàn Chim Việt