vietsoul21

Bất Bạo Động: Tròng Diễn Luận? (phần III)

In Cộng Đồng, Chính trị (Politics), Lịch Sử, Triết Học, Việt Nam on 2014/06/07 at 05:10

Phần III:

HẠN CHẾ CỦA DIỄN LUẬN BẤT BẠO ĐỘNG

HIỆU QUẢ NGẮN HẠN

CẢI CÁCH HAY CÁCH MẠNG

TẠM KẾT

_____________________________

PHẦN III

Hãy minh bạch trong ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng và những ý tưởng mà chúng ta nuôi dưỡng. Vì ngôn ngữ là gì nếu không là sự biểu hiện của tư tưởng? Hãy làm cho suy nghĩ của bạn chính xác và trung thực, và bạn sẽ thúc đẩy sự ra đời của tự trị (sawraj[i]) ngay khi mà cả thế giới đang chống lại bạn. ~ Mahatma Gandhi

HẠN CHẾ CỦA DIỄN LUẬN BẤT BẠO ĐỘNG

Việc sử dụng các phương pháp bất bạo động thì phụ thuộc vào một số yếu tố bao gồm (1) các truyền thống liên quan đến nhân dân và lịch sử (ví dụ truyền thống chống ngoại xâm của người Việt), (2) trình độ kiến thức và kinh nghiệm của các vị tiên phong và các nhà hoạt động về phương cách bất bạo động, (3) tình hình chính trị và xã hội , (4) mức độ đàn áp các vị tiên phong và các nhà hoạt động xã hội sẵn sàng chịu hy sinh đau khổ, (5) bản chất của các mục tiêu thuộc phe đối thủ , (6) các nguồn tài lực mà đối thủ dùng để xử lý, (7) mức độ tàn nhẫn của đối thủ , (8) số lượng người tham gia phong trào bất bạo động và mức độ hỗ trợ phong trào nhận được từ công chúng, (9) chất lượng của các nhà hoạt động và các vị lãnh đạo, và (10) tính chất của yêu sách và tình hình cụ thể mà trong đó hành động của yêu sách diễn ra.

Như đã phân tích trong phần I, sự từ chối bạo lực—đặc biệt là không thừa nhận hành động có chủ đích tự vệ—tự nó đã chấp nhận các logic đạo đức của chủ nghĩa phát xít, rằng kẻ yếu phải chấp nhận sự cai trị của kẻ mạnh hay kẻ tàn nhẫn nhất trong các phương pháp mà họ sử dụng để kiểm soát người dân.

Phong trào bất bạo động tại VN do đó có thể là chất xúc tác dẫn đến các “cải cách” chính trị NHƯNG KHÔNG giúp lật đổ một chế độ mục rữa trong tinh thần cách mạng dân tộc.

HIỆU QUẢ NGẮN HẠN

Khi cổ võ cho bất bạo động, ông Lý Thái Hùng, Tổng bí thư đảng Việt Tân, đã tuyên bố: “Cái giá phải trả để được các lợi điểm nêu trên là phải chấp nhận một cuộc đấu tranh lâu dài.” Sách lược lâu dài thì có lợi cho ai? Cho đảng phái nào? Cho nhà cầm quyền Việt Nam? Và cho ai/nhóm nào nữa? Chắc chắn không thể có lợi cho phó thường dân khi máu đã đổ thành sông và xương khô phủ khắp ruộng đồng.

Nhiều nhà hoạt động chống độc tài thuộc tầng hệ thống cơ chế đã từng than hỏi rằng: “Liệu công việc đối kháng nào sẽ có ý nghĩa và hiệu quả hơn: dùng thân thể nhiều người để phong tỏa một cây cầu trong một vài giờ hay cho cầu sập để kinh tế giao dịch qua cầu phải trì trệ trong vòng sáu tháng hay cả năm?”

Đây cũng là một trong những cách Việt Cộng đã từng sử dụng và công nhận là có ích lợi cho “công cuộc đấu tranh” cưỡng chiếm miền Nam VN của chúng. Trí thức CSVN sau 1975 cũng đã từng cổ võ cho sự bạo động của người tu hành dưới chiêu bài yêu nước. Lê Gia Hân thuộc Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã từng viết quả quyết như sau:

[T]hực tế lịch sử Việt Nam cho thấy, không phải mọi lúc, mọi nơi, tăng ni và Phật tử đều áp dụng phương thức bất bạo động trong các cuộc đấu tranh với quân xâm lược. Khi đất nước gặp họa xâm lăng, nhiều nhà sư đã “cởi cà sa, khoác chiến bào” trực tiếp cầm vũ khí đánh giặc bảo vệ Tổ quốc.

Vậy tại sao diễn luận “bạo động vì yêu nước” đó lại bị bác bỏ hay tước hữu hiện nay bởi nhiều thành phần? Như vậy thì có lợi cho ai, cho đảng phái nào?

Bất bạo động không nên được xem là một loại thuốc chữa bách bệnh. Một số xung đột chính trị tự nó có khả năng kháng cự các giải pháp ngắn hạn, dù giải pháp ngắn hạn là bạo động hay bất bạo động.

Lực lượng vũ trang có thể cần thiết trong một số trường hợp để bảo vệ người dân. Chẳng hạn như ở Đông Timor nơi mà Liên Hiệp Quốc đã cung cấp lực lượng vũ trang giúp cho người dân an toàn hơn trong khi chống lại cuộc tấn công của lực lượng dân quân mà chính quyền Nam Dương đã bảo trợ. Vai trò của bất bạo động trong các cuộc xung đột sắc tộc cũng vì thế cần được đánh giá một cách nghiêm túc hơn khi mà dân chúng biểu lộ thái độ ngoan cố và thách thức mạnh mẽ hơn đối với phương thức bất bạo động.

Vấn đề bất bạo động có thể trở thành một lựa chọn thay thế cho chức năng bạo động trong quá trình xã hội tiến hóa hiện tại vẫn còn gây nhiều tranh cãi.

Tương lai của bất bạo động nằm ở chỗ làm sao đưa ra các phương cách áp dụng cả hai lực—sức và thế—mang tính sáng tạo hơn là nhấn mạnh quá nhiều vào chất độ tinh khiết trong khi ứng dụng. Nếu không, các áp dụng hiện nay cho phong trào bất bạo động đã vô hình chung loại trừ hàng triệu người dân trong việc dự phần vào phong trào.

Quan trọng hơn hết là gánh nặng của việc xác định thế nào là một hành động bất bạo động trong một trường hợp cụ thể phải thuộc về những người trong cuộc thực hành phương thức đó chứ không phải là người bên ngoài.

Không ai có quyền đánh giá thế nào là đúng và thế nào là sai dựa trên một mô hình hay tiêu chuẩn điển hình phát triển trong một bối cảnh khác với bối cảnh của nơi mà các hành động diễn ra trong hiện thực.

Điều này không có nghĩa là một phong trào bất bạo động nên gạt bỏ khỏi nền tảng luân lý của nó. Nhưng khi mối quan tâm của phong trào lại (1) tập trung quá nhiều về nguyên tắc của hành động bất bạo động thì các hành động của đám đông ở hiện trường có thể vô hình chung bị xiềng xích, và (2) khi kỹ thuật bất bạo động được chú trọng quá mức thì nền tảng luân lý của bất bạo động có thể bị suy yếu và phá hủy. Một khi cố làm cho các đề nghị dựa trên các mục tiêu không mấy gì là cao quý mà lại mong có khả dĩ được thừa nhận thì đấy chính là lúc mà chúng ta cần nghĩ ngang nghĩ dọc thêm về một sách lược thỏa hiệp.

Đối thủ thường không (cần) phân biệt giữa một hành động bất bạo động và bạo động dựa trên cơ sở có chủ ý hay không. Trong khi đó đấy lại là bản chất của những ai hành động. Đối với nhà cầm quyền hành động bất bạo động của bất cứ loại nào, dù là loại nguyên tắc hoặc sách lược, thì đều là có vấn đề.

Ngoài ra, hành động bất bạo động là trọng tâm của người sử dụng chứ không phải là trọng tâm của cơ chế. Do đó nhiều hình thức áp bức không có chỗ cho việc hệ thống hóa mà cũng không được phân tích ngọn ngành trong quá trình cổ võ cho phong trào bất bạo động.

Đối với nhiều nhóm phó thường dân bị áp bức trấn lột thì bất bạo động không còn tạo được hấp dẫn một khi (1) có sự quá tin tưởng vào tính phổ quát của bất bạo động, (2) quá tin vào sự đồng thuận trong xã hội cho tính người của bất bạo động, và (3) khi phong trào bất bạo động thất bại vì không thừa nhận các hình thức đàn áp xảo quyệt của nhóm thống trị.

Chúng ta nên thừa nhận rằng chuyển đổi một cơ chế có thể dẫn đến biến đổi cá nhân thì hiện tượng ngược lại cũng có thể xảy ra, như Anthony Giddens từng nhắc nhở. Đối với các nhóm liên minh, các nhà hoạt động bất bạo động do đó không nên tự mãn về tính “giải phóng” của phong trào bất bạo động trong lúc thể hiện các mối quan tâm quá mức của mình cho tính thuần khiết và độc lập của phong trào.

Khi bất bạo động chỉ được sử dụng như một phương tiện để kết thúc cuộc đấu tranh, bất bạo động sẽ thành vô ích ngay cả khi đạt chiến thắng hời hợt giả tạo bởi vì cuộc tìm kiếm chân lý cho sự tồn tại của con người đã không phải là mục tiêu cuối cùng của phong trào.

CẢI CÁCH HAY CÁCH MẠNG?

Nếu chỉ có hiệu quả ngắn hạn, câu hỏi kế tiếp và nhất thiết là phải biết chúng ta xuống đường “ôn hòa” là để làm gì? Cho cải cách hay cách mạng? Cải cách theo kiểu bình cũ rượu mới hay là cách mạng đập bỏ chai rượu?

Như đã đề cập ở phần trên, phong trào bất bạo động trên thế giới đa phần tập trung hoàn toàn vào chiến thuật ngắn hạn và chưa thấy bất kỳ các chiến thuật này có thể nào đạt được mục tiêu dài hạn cho phong trào. Mục tiêu dài hạn phải là đấu tranh cho một nền hòa bình mang tính tích cực.

Một học giả người Na Uy, ông Johan Galtung, đã mở rộng khái niệm về bạo lực (vượt lên trên tình huống của bạo lực cơ bắp công khai và trực diện, và vượt lên trên thể lý, cá nhân, chủ đích) bao gồm các hình thức ngấm ngầm như bóc lột, kỳ thị màu da hay chủng tộc, khử trừ loại bỏ, bất bình đẳng và bất công trong xã hội. Các hình thức ngấm ngầm này dù không cần phương tiện bạo lực trực diện vẫn có những tác hại cả về mặt thể xác và tinh thần trong đó có tâm lý.

Matrix_Violence

Bạo lực cơ chế không thể xuất hiện như thần như thánh trong văn hóa mà dựa trên các tập tục tìm thấy trong nền văn hóa đó. Nói cách khác, bạo lực cơ chế là một quá trình mà nhờ đó bạo lực văn hóa được thể chế hoá. Galtung đã đề xướng ý tưởng về bạo lực cơ chế trong lúc làm nổi bật vai trò của văn hóa bạo lực như là một phần của ma trận của một xã hội bạo lực—một ma trận thường được sử dụng vừa để biện minh và vừa hợp pháp hóa cả bạo lực cơ chế và bạo lực văn hóa. Các hình thức tập quán của bạo lực văn hóa có thể được tìm thấy trong các khía cạnh của văn hóa như tôn giáo, ý thức hệ, ngôn ngữ và nghệ thuật. Khi nói về ảnh hưởng tai hại của bạo lực văn hóa ông Galtung cho rằng:

Bạo lực văn hóa giúp cho bạo động trực diện (lên thể xác) và bạo lực cơ chế ở chỗ khi người ta nhìn thấy, và thậm chí cảm thấylà điều phải hoặc ít nhất là không sai [ii].

Nói một cách đơn giản, bạo lực văn hóa hợp thức hóa bạo lực cơ chế. Để giải thích rõ hơn các động tác của bạo lực, ông Galtung phân tách sự khác biệt và tính tương quan của bạo lực trực diện, cơ chế, và văn hóa như sau:

Bạo lực trực diện là một sự kiện; bạo lực cơ chế là một quá trình với những thăng trầm lên xuống; bạo lực văn hóa là một bất biến , một “vĩnh cửu. Ba hình thức bạo lực nhập cuộc ở các khoảng thời gian khác nhau, phần nào tương tự như sự khác biệt trong lý thuyết động đất—sự khác nhau giữa các trận động đất như một sự kiện, sự chuyển động của các mảng thạch quyển là một quá trình, và các đường nức đứt như một tình trạng lâu dài hơn.[iii]

Như vậy câu hỏi cần cân nhắc ở đây phải là: Tại sao khi sử dụng phương cách bạo động trực tiếp thì bị chống đối hơn là các phương cách của bạo lực mang tính cơ chế và văn hóa–dù nằm ở dạng sóng ngầm nhưng tác hại thì lan tràn vào mọi mạch máu của xã hội trong nhiều bối cảnh và qua nhiều thế hệ?

Blogger Lâm Mạnh Di đã than thở về cái chết bằng những cảm nhận sắc bén của mình khi thấy có quá nhiều người tập trung vào những hình ảnh trưng bày những cái chết dã man do nhà cầm quyền Trung Cộng tạo ra vì đã tàn sát tập thể các sinh viên tại Thiên An Môn ngày 4/6/1989:

Một cái chết mau chóng dù sao cũng “hạnh phúc” hơn cái chết dần chết mòn, cái chết trong sự bị sỉ nhục, bị đầy đọa về tâm hồn lẫn thể xác như hàng trăm ngàn dân miền Bắc trong CCRĐ, hay biết bao nhiêu sỹ quan quân đội VNCH trong ngục tù được mang danh là trại cải tạo … Đó mới là những cái chết thê thảm và đau đớn. Polpot có thua gì, hay tìm đọc Gulag để thấy sự dã man của Stalin đối với dân tộc Nga.

Những tội ác khủng khiếp nhất, những kiểu giết người kinh dị nhất đều mang cái tên CNCS!

Chỉ với vài câu diễn tả khéo léo trong mỉa mai (bằng cách nhái cách gài khung của “đầy tớ” CSVN gọi dân oan là “ông bà chủ”), blogger Đặng Bích Phượng cũng đã lột tả được cơn sóng ngầm của bạo lực cơ chế và văn hóa đang âm thầm hủy hoại đất nước Việt Nam, nhất là những ai đang sống mà như đã chết:

“Trong cái nóng hầm hập, các ông bà chủ ngồi bệt ở ngoài cổng, bên trong cổng, cơ ngơi của các đầy tớ thật khang trang. Mọi cánh cửa đều đóng im ỉm, mát lạnh điều hòa.

Hôm nay, mồng 4/6, khắp mọi nơi người ta tưởng nhớ đến các nạn nhân của Thiên An Môn. Vậy có ai nhớ đến các nạn nhân còn đang sống đây không? Hơn 1000 dân oan Dương Nội, Văn Giang, Hải Phòng cùng đến mặt trận tổ quốc để gửi đơn kêu oan.

Vì thế, ông Johan Galtung phê bình phương pháp bất bạo động thực tiễn của ông Gene Sharp là loại “bất bạo động tiêu cực”, tức là không thực sự can thiệp và thách thức các “bạo lực của cơ chế”—một loại trấn áp trấn lột đã bện dệt trở thành bản chất của một xã hội và tạo vững chãi cho một nền văn hóa bạo lực. Ông đề xướng phương thức “bất bạo động tích cực” để chống lại các bạo động mà cơ chế tạo ra và được củng cố bằng một nền văn hóa bạo lực[iv].

Chất vấn về nguyên nhân của những cái chết dần mòn và trong sỉ nhục như thế lại dẫn đến một câu hỏi liên quan: vậy thì mục đích của phong trào đối kháng/phản kháng lại một thể chế độc ác vô nhân đạo phải là gì?

Protest Message

Khẩu hiệu xuống đường hay tại gia “VÌ MỘT QUỐC GIA CƯỜNG THỊNH, PHẢI THAY ĐỔI!” đã nói lên được ước muốn chung của người dân (khi đã nhận ra vô số sai lầm và khiếm khuyết của cơ chế “đồi trụy”). Nhưng nếu không có một mục tiêu nhất định thì thay đổi (cải cách) này cũng có thể bị tước hữu bỡi quyền lực đương thời để tiếp tục thống trị bằng cách hoán vị thay ngôi cá mè một lứa.

Mục tiêu chính là gì khi muốn “thay đổi”? Thay đổi cái gì và trong viễn quan của cải cách hay cách mạng triệt để? Thay đổi liên quan với đổi mới như thế nào?

Hãy nhìn vài thí dụ của diễn luận “đổi mới” của CSVN. Mục tiêu của chính sách “Đổi Mới” của ĐCSVN [vào hai thời kỳ: hoàn toàn thất bại về sản xuất nông nghiệp tại miền Bắc vào năm 1967 và lại tái diễn nhưng không thành công trong thập niên 1980s cho công nghiệp] như một ví dụ. Đổi mới về cái gì? Phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì có lợi cho ai? Đổi mới thật sự cho ai? Hay là “Đổi mới nhưng không đổi màu” và “Hòa hợp nhưng không Hòa tan” (lời Đỗ Mười tại khóa đảng CSVN lần thứ VII vào năm 1991)?

Chọn “thay đổi chậm và mang tính ổn định” (lời của Nguyễn Cảnh Bình, Giám Đốc nhà xuất bản Alpha Books, người được cho là “một nhà cải cách thực dụng và thẳng thắn” ủng hộ những gì ông gọi là “trung đạo” cho Việt Nam) hay muốn có “Mùa Xuân Việt Nam” thay đổi hoàn toàn một cơ chế?

Chúng ta xuống đường “ôn hòa” và “kềm chế” là để làm gì? Cho cải cách (bình cũ rượu mới) hay cách mạng triệt để (đập bỏ chai rượu)?

Tác giả Trần Ngân (trong bài “Vài Đánh Giá Ban Đầu Về Cuộc Xung Đột Hiện Nay Giữa Việt Nam Và Trung Quốc”) mới đây đã nói gì để mạng Bauxite Việt Nam cho là một tiếng nói “khách quan soi tỏ tình hình ở Việt Nam” và là một tiếng nói “trung ngôn nghịch nhĩ”:

Đa số những người có hiểu biết thật sự đều hiểu rằng chỉ có cách tách ra khỏi “quỹ đạo Trung Quốc”, dân chủ hóa đời sống chính trị, tự do hóa nền kinh tế để làm đất nước mạnh lên, hội nhập hơn nữa vào các chuẩn mực chung của văn minh nhân loại để tìm thêm những người bạn mới trên thế giới thì mới là cách tốt nhất để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên, điều này lại vấp phải một trở lực quá lớn là ý thức hệ của đảng cầm quyền.

Thế thì “ý thức hệ của đảng cầm quyền” (theo chủ nghĩa cộng sản) có thể thay đổi bằng “cải cách”?

Trong bài phát biểu vào ngày 30/5/2014 tại Toronto nhân dịp buổi gây quỹ cho tổ chức “Tribute to Liberty” để dựng một đài tưởng niệm vĩnh viễn tại Ottawa, thủ đô Canada, để tưởng nhớ “hàng trăm triệu” linh hồn nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, ông thủ tướng Stephen Harper thuộc đảng Bảo Thủ của Canada đã nhấn mạnh rằng ý thức hệ này “gây nhiễm độc khắp nơi trên thế giới, trên hầu hết các châu lục” với ngút ngàn tội ác qua áp bức và giết người. Ông nói,

[D]ù ở bất cứ hình dạng, nhãn hiệu nào – chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Mác-Lênin, hay chủ nghĩa khủng bố ngày naytất cả đều có một điểm chung: sự hủy diệt, chấm dứt tự do của con người.

Ông Harper cảnh cáo rằng, “Tội ác xuất hiện dưới nhiều hình thức và chúng có thể tái sinh.” Không ai có thể phủ nhận là ý thức hệ của đảng Cộng Sản là một nền văn hóa bạo lực vì đã tước hữu tất cả đặc trưng văn hóa của quốc gia, tước hữu tất cả thông điệp/yêu sách về dân chủ tự do và quyền con người, và sau đó tất cả bị xoa bóp nhào nặn để định hướng lại cho phù hợp với đường lối chính sách của chính quyền.

Chủ đích tước hữu tất cả các thứ đó không phải chỉ hoạt động ở tầng tạo dựng ý nghĩa từ những giá trị nhập nhằng và xây dựng quyền lực không phân minh. Chủ đích tước hữu tất cả các thứ đó còn hoạt động cả trong tầng lớp hưởng thụ ăn bám như ký sinh trùng (sát cánh) giúp vận hành cỗ máy đó.

Có rất nhiều móc xích trong chuỗi ký sinh, loại trực tiếp và loại gián tiếp. Có ký sinh trực tiếp “còn đảng, còn mình”. Có ký sinh gián tiếp thoáng ra không ai nhìn thấy vì nó nằm xa mãi ở tận cuối chuỗi móc xích. Ký sinh trực tiếp thì biết (bám) chủ còn ký sinh gián tiếp nằm ở cuối chuỗi móc xích thì lờ mờ (lửng lơ) với chủ gốc.

Điểm đặc biệt ở đây khác với định luật sinh tồn trong quan điểm sự tồn tại thuộc về loại mạnh nhất (survival of the fittest) ở chỗ ký sinh rất dị ứng với việc chủ bị triệt tiêu. Vấn đề này rất hệ trọng vì làm rối loạn mối liên hệ của chủ-ký sinh (host-parasite relationship). Nguyên do bởi lẽ ký sinh và chủ có cùng một chu trình tiến hóa tương tác (co-evolution). Chủ có sống thì ký sinh mới tồn tại. (VietSoul:21)

Ngay cả khi chủ không còn sống thì ký sinh vẫn có thể tồn tại khi tìm cách “trao thân gởi phận” vào chủ mới—loại chủ thật ra chỉ biến thái trên bề mặt.

Cổ võ cho “cải cách” ý thức hệ với nhiều loại ký sinh trùng “trao thân gởi phận” như thế thật là chuyện không tưởng!!!

Một khi phương thức bất bạo động tập trung hoàn toàn vào chiến thuật ngắn hạn (và chưa thấy bất kỳ các chiến thuật này có thể nào đạt được mục tiêu dài hạn cho phong trào) thì làm sao có thể “thay đổi” ý thức hệ? Còn nếu chọn cách mạng xóa bỏ hoàn toàn một ý thức hệ—hiện thân của bạo lực—thì sao?

Cách mạng hầu (1) xóa bỏ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa vừa vô nhân vừa độc tài, (2) rũ bỏ dứt áo với văn hóa bạo lực, và (3) chôn vùi cơ chế bạo quyền CSVN đã sinh sản những bạo lực đòi hỏi một mục tiêu dài hạn. Trong khi đó việc ứng dụng phương cách “bất bạo động” thì không có chỗ để bàn đến ý thức hệ—một lãnh vực hệ trọng nhưng vô hình và bàng bạc khắp mọi ngõ ngách của đời sống xã hội và văn hóa—nên không thể chỉ mang tính thực tiễn thực dụng và chỉ nằm trong phạm trù duy lý.

Cách mạng ở đây không hàm ý là cuộc cách mạng “long trời lở đất” máu đổ đầu rơi mà là cuộc cách mạng vượt qua nỗi sợ, hoàn toàn xóa bỏ ý thức hệ độc tài và cơ chế bạo quyền bằng phản kháng toàn diện. Cuộc cách mạng này có sự tham gia của toàn thể người dân thuộc mọi thành phần xã hội dùng đủ các phương tiện, phương thức đứng lên đòi quyền làm người, quyền công dân tự do. Trí thức thì tách rời (bỏ đảng, bỏ hội đoàn) khỏi cơ chế áp bức đứng vững trong vị trí độc lập đối trọng với tuyên huấn trong việc chấn dân khí, hậu dân sinh. Công nhân thì kết đoàn đình công, thương gia thì bãi thị, sinh viên thì bãi khóa bãi trường, nông dân thì tử thủ giữ đất giữ làng.

Hành động của nhà thơ Hữu Loan và những ai tương tự là hành động phi thường của những cá nhân đơn độc trong một nền văn hóa và giữa một cơ chế bạo lực tạo ngu dốt và vô cảm. Hủy bỏ cơ chế và văn hóa bạo lực thì là chuyện tất phải làm và chẳng có gì là phi thường—nhất là khi mọi người đồng lòng từ chối rót dầu bôi trơn cho cỗ máy vận hành, khi mọi người luôn tìm cách gây trở ngại phá hủy cỗ máy thì nó sẽ ngưng hoạt động.

Ai quên rằng: Một viên đá cuội ở chiếc ná trong tay của David nhắm vào thái dương đã đánh gục gã khổng lồ Goliath. Một cây kim hoặc một cái tăm nhọn chọc thẳng vào tròng mắt của beo hùm cũng làm chúng đui mù rống chạy. Một chai nước lã trộn vào bình xăng, bình dầu cũng làm máy ì ạch và tắt ngủm. Một viên sỏi nhỏ bỏ vào tâm trục quay của máy móc dù tinh vi đến mấy cũng làm nó gãy càng ngừng chạy.

Con đường còn lại cho người bị áp bức là phản kháng và đối kháng bằng mọi phương tiện và mọi phương thức ở mọi nơi mọi lúc. Không chấp nhận văn hóa “xin—cho”, làm ký sinh trùng bôi trơn cho cỗ máy đang nghiền nát tự do, hạnh phúc, “đem bục công an đặt giữa trái tim người”[v].

Ex-prisoners_Message

Từ trái qua phải, hàng trên: Luật sư Nguyễn Văn Đài (Hà Nội), Anh Nguyễn Văn Túc (Thái Bình), Thạc Sĩ Nguyễn Tiến Trung (Sàigòn), Linh mục Phan Văn Lợi (Huế), Chị Phạm Thanh Nghiên (Hải Phòng), Giảng viên Phạm Minh Hoàng (Sàigòn)

Hàng dưới : Kỹ sư Phạm Văn Trội (Hà Nội), Sinh Viên Nguyễn Phương Uyên (Bình Thuận), Luật Sư Lê Công Định (Sàigòn)

Bất bạo động sẽ là vô nghĩa trừ khi nó đi đến tận gốc rễ căn bản của một vấn đề để thúc đẩy hòa bình tích cực.

Có nên chăng rút ra bài học cả thành công và thất bại của các phong trào bất bạo động lật đổ chế độ độc tài?

Ấn Độ sau khi ông Gandhi bị giết cho đến ngày nay vẫn chưa xóa bỏ được các cuộc cách mạng chống lại kỳ thị chủng tộc và kỳ thị giai cấp, chủ nghĩa thực dân, và bạo lực mà ông Gandhi đã tiên phong cổ võ.

Sự từ nhiệm của các nhà độc tài tại El Salvador và Guatemala sau một phong trào bất bạo động làm các khu đô thị tê liệt vào năm 1944 đã không chấm dứt được nghèo nàn sâu rộng và giảm được lượng tập trung quyền lực và ảnh hưởng chính trị trong xã hội nằm trong tay một số nhỏ giàu có.

Nga và một số quốc gia tự trị trong và ngoài Liên Xô thì như thế nào? Những phong trào độc lập và cải cách đã đem lại gì cho các xã hội Đông Âu này? Cải cách chuyển đổi từ chuyên chế CS độc tài toàn trị sang một xã hội với bầu cử phổ thông kinh tế thị trường nhưng truyền thông và báo chí cũng như các tập đoàn tài chính/kỹ nghệ được cổ phần hóa và vẫn nằm trong tay kiểm soát của tàn dư phe đảng nên vẫn không bảo đảm vấn đề công bằng công lý trong kinh tế và xã hội mà cũng chẳng chấm dứt chủ nghĩa quân phiệt.

Miến Điện cũng thế. Nếu quân đội tiếp tục kiểm soát nhiệm kỳ tổng thống và không giao quyền lực cho các nhà lãnh đạo dân sự thì tính hợp pháp và sự ổn định của quá trình chuyển đổi chính trị không thể nào hoàn chỉnh. Cho dù bà Aung San Sui Kyi được nhiều ủng hộ đồng tình trong và ngoài nước, sức lực cán cân của Liên Minh Quốc Gia vì Dân Chủ quá mỏng nên không thể làm suy yếu chế độ độc tài.

Đó là vì chế độ Miến Điện có các sách lược nhằm ngăn chặn các luồng thông tin đến tới công chúng cũng như bên ngoài. Đây là cách chế độ (bình cũ rượu mới) miễn nhiễm với dư luận toàn cầu. Hơn nữa, kỹ nghệ hiện đại sử dụng để kiểm soát đám đông thường ngăn chặn sự hiểu biết của người dân về bản chất của tội ác mà chế độ cầm quyền đã thi hành. Công cụ kiểm soát mới mà cảnh sát sử dụng giờ đã uyển chuyển nhưng không hẵn kém hiệu quả so với cách cưỡng chế gây chết người để chống lại các hành động bất bạo động. Chế độ bình cũ rượu mới này thiết kế một chương trình hành động để bọc kẹo các tác dụng của đàn áp khiến truyền thông không thể nào tường thuật được chính xác về toàn bộ tình hình trong đó có các giai tầng của cưỡng chế ép buộc. Tóm lại, Miến Điện cho dù chấm dứt thể chế “xã hội chủ nghĩa” vào năm 1988 (sau cuộc Nổi dậy 8888 như là một “Diễn biến hoà bình”) nhưng cho đến nay vẫn có rất nhiều vấn đề hiến pháp khác cần được giải quyết vì vẫn bị ám bởi bóng ma cộng sản độc tài và sự ủng hộ từ các cường quốc trong vùng, đặc biệt là Trung Cộng.

Ai Cập sau ba tuần của một “làn sóng cách mạng hoa lài” vào cuối năm 2010 thì sao? Nên nhớ, đây không phải là một phong trào chỉ có bất bạo động để thay đổi một chế độ độc tài mặc dù các mạng truyền thông không tập trung vào các cảnh bạo động. Làn sóng cách mạng thành công này vừa có bạo động vừa có bất bạo động với nhiều náo loạn tầm quốc gia nhưng vẫn không thiêu hủy cơ chế độc tài, không đồng nghĩa với một bảo đảm thật sự cho các chính sách dân chủ chung hòa (democratic inclusion), công bằng xã hội, bình đẳng trong cơ hội, và bảo vệ quyền con người. Khi điểm chỉ nguyên nhân thất bại (qua cuộc phỏng vấn với đài Á Châu Tự Do) là do “chưa kịp phát triển đủ nền tảng xã hội dân sự”[vi] thì quả là phiến diện thiếu chiều sâu vì đơn giản hóa một bức tranh phức tạp. Phân tích như thế là đổ một trách nhiệm quá lớn cho khối xã hội dân sự trong khi ý thức hệ mang hiện thân bạo lực của xã hội Ai Cập (và chúng ta có thể thấy hiện tượng tương tự như dưới chế độ CSVN) thật ra là nguyên căn đã đem lại một hậu quả sâu rộng tiêu cực và phá hủy tâm và tầm của con người trong xã hội đó.

Thế thì bài học lịch sử là gì?

Chuyện lật đổ nhóm cầm quyền độc tài chuyên sử dụng bạo lực tuyệt đối hóa không thể chỉ là vấn đề cải cách và dẫn tới nền hòa bình tiêu cực thiếu công lý và không có sự hài hòa giữa cá nhân và xã hội—như dưới chế độ CSVN khi mà chính trị vẫn là thủ thuật giật bánh, đòi bánh, chia chác bánh, nhưng chỉ vẽ bánh mà không để dân lấy bánh.

Thứ hai, việc dọn đường chuẩn bị xóa bỏ các ảnh hưởng sóng ngầm tiêu cực của tròng nô lệ trong tư tưởng, tâm lý, và hành động xóa bỏ tất cả các bạo lực từ thể xác, tinh thần đến cơ chế và văn hóa. Đó mới chính là mục tiêu quan trọng nhất.

Ngoài ra, việc thách thức một số giả định rằng “phương cách nào—dù là bạo động hay bất bạo động—thì có hiệu quả hơn” phải được đưa ra qua các ví dụ đơn giản, chẳng hạn như khi nào bạo động hay bất bạo động sẽ tạo phản tác dụng đối với bạo quyền hoặc người biểu tình. Sau đây là một số đề nghị thiết thực:

  • Vạch trần các “tiêu chuẩn kép” (double standards) trong các cuộc thảo luận của bạo động/bạo lực và bất bạo động, ví dụ bằng cách chỉ ra thế nào là hữu hiệu và về những thất bại của các phong trào bạo động cũng như bất bạo động.
  • Làm cho mọi người biết đến trong khi không có chủ ý áp đặt các nghiên cứu thiên vị cho một trong hai phong trào.
  • Hiểu và hành với cả hai truyền thống nguyên tắc và thực tiễn trong bạo động và bất bạo động, và sự tương tác giữa nguyên tắc và hiệu quả.
  • Chứng minh được vấn đề đấu tranh bất bạo động “không liên quan gì tới thụ động, quy phục hay hèn nhát.”
  • Vạch rõ thế nào là bất bạo động thực tiễn, sách lược, hay nằm trong nguyên tắc thiên triết học.
  • Không tìm cách áp đặt và tự mãn khi cho phương cách này hay phương cách của mình là đúng để tránh các dấu hiệu bạo lực về mặt tâm lý.

Tất cả các cuộc cách mạng đều có thỏa hiệp, và mang tính đa dạng của các chiến lược, chiến thuật, và triết lý. Những lập luận cho hành động bất bạo động và chống lại bạo lực/bạo động phải được hiểu chỉ là những xu hướng, không có các chân lý phổ quát.

Khi “bất bạo động” được đề ra như một chiến thuật nghiêm ngặt và theo chiều thu hẹp như thể là phương tiện thích hợp duy nhất ở các quốc gia độc tài và chậm phát triển (chứ không là một sách lược hay lý thuyết cho sự thay đổi trong xã hội) thì không thể nào tạo ra các thay đổi sâu rộng và lâu dài.

Chúng ta không thể đồng lõa để các lập luận bất bạo động trở thành tròng thắt cổ diễn luận vì tròng làm bằng vải lụa mượt mà—loại vải lụa đan dệt tinh vi bằng sợi chỉ mang màu lý luận chính trị trọng nhu bất cương.

TẠM KẾT

Dù rằng đây là bài phân tích và phê phán diễn luận bất bạo động, chúng tôi thiết nghĩ cũng cần phải có cái nhìn sâu hơn bề mặt của “diện” (hay “hiện tượng”) để hiểu “điểm” (hay “bản chất”) của các phong trào phản kháng tại Việt Nam.

Hy vọng là thế.

“Bất bạo động” từ nhiều hình thức khác nhau (là tâm công, là vận dụng địch như chiến thuật liên tục làm kẻ thù đổi hướng quay sang phe ta) có thể trở thành nén, dồn năng lượng, chờ đúng thời cơ, đúng hướng bật lên, và chuyển sang tự vệ/đối kháng trực diện bằng cách ĐÁNH ngay vào nhược điểm của bạo quyền.

Và nếu thế thì tùy theo tình hình trong bối cảnh Việt Nam, hành động tự vệ linh hoạt và linh động của nhiều nhóm đoàn sẽ mang tính đột kích đột phá, không phải là bất bạo động tự phát xảy ra nữa, mà đã có thể xảy ra sau khi chuyển từ sử dụng phương cách bất bạo động thực tiễn.

Có lẽ chúng ta—đám đông nhân chứng—phải cởi trói tư tưởng không nô lệ dựa dẫm chỉ vào một chủ thuyết/nguyên tắc/phương cách. Ngoài ra, đám đông nhân chứng tiếp tục rèn luyện khả năng nhận xét/phân tách và tri thức cách mạng, và hun đúc hành động phản kháng/đối kháng giống như là tinh thần và tính cách của NƯỚC.

Nước rất mỏng manh. Nước khởi đầu leo lách.

Nước có đoạn chảy xiết nhưng khi ánh sáng nhiệt đủ độ đốt có thể chuyển sang dạng ngầm. Nhưng nước không tuyệt tử. Nước chỉ ngầm thấm.

Nước róc rách âm thầm tuôn chảy trước khi chuyển thành thác đổ.

Nước khi ấy làm xói mòn đá và lật đổ núi đồi.

Điều oái ăm là nạn nhân, đám đông nhân chứng (trong đó có chúng ta) thường chui rúc ở góc quán lá cuối con đường mang tên “lú lẫn lãng quên”.

Quán lá ấy tồn tại một khi bạo lực được tuyệt đối hóa và đám đông nhân chứng tự mình chấp nhận quán lá “lú lẫn lãng quên” là một nhà lầu nguy nga có chủ quyền và chính thức. Quán lá ấy chỉ tồn tại một khi đám đông nhân chứng tự bằng lòng đu đưa nằm trên võng lưới nô lệ của”nội thực dân”—võng lưới mà tư bản đỏ đã tròng vào, giật dây, và xiết chặt đến độ không muốn vực dậy. Quán lá ấy vẫn mãi tồn tại một khi mà đám đông nhân chứng thích đu đưa trong khoái cảm. Hãy nhìn những thanh niên đoàn CSVN quốc nội, du sinh, và Việt Kiều tại Đông Âu hân hoan khoe khoang trên mạng sau khi xuống đường biểu tình chống Trung Cộng với cờ đỏ sao vàng—một biểu tượng của tổ quốc đã bị bắt làm con tin nhốt vào chuồng của đảng.

Đám đông nhân chứng vì vậy ù lì ở vũng nước tù, vì vậy đi mà như ngủ, đi trong mê sảng như thể chỉ có mình, đi mà như không thấy trên đường bao kẻ với lương tri tỉnh thức bị bạo lực trù dập, quên phắc đi rằng là khi tụ họp và sẵn sàng thì nước sẽ thành thác lũ với sức mạnh dũng mãnh nứt núi, đổ đồi.

Nước nứt núi, đổ đồi phá hủy toàn bộ cơ chế trong ý chí đoàn kết một lòng bất hợp tác toàn diện.

Ai còn biết đến nước thì rõ bản năng của nước—một bản chất lúc len lách, lúc vượt tràn hoàn toàn bất hợp tác với tròng diễn luận “bạo động” hay “bất bạo động” áp đặt sẳn.

Còn biết đến nước. Còn sống với nước. Còn nhớ rằng những cơn thác lũ đã từng sói mòn và cuốn trôi những chướng ngại trên đường ra biển cả ở mảnh đất mang hình chữ S này.

Còn nước—nguồn sinh lực chảy ngầm hội tụ thành cơn lũ cuốn sạch đi những vũng tù độc hại đem lại nguồn sống mới cho dân Việt để nuôi dưỡng linh khí Việt.

Nước là chúng ta, chúng ta là nước.

 

Xem tiếp: Phần I & Phần II

________________________

CHÚ THÍCH

[i]  Swaraj (tự trị) đặt trọng tâm vào cách quản trị không phải do một chính phủ phân cấp mà là thể chế tự quản trị thông qua xây dựng cá nhân và cộng đồng. Chủ đích của tự trị là đối kháng quyền lực thể chế chính trị mang tính tập trung.Thể chế tự trị ở đây là một đường lối phản kháng lại hệ thống chính trị và xã hội do nước Anh khởi thiết chế, khái niệm về Swaraj của Gandhi nhấn mạnh loại bỏ thể chế chính trị, kinh tế, hành chính, luật pháp, quân sự, và giáo dục Anh quốc tại Ấn Độ. Nguyên văn tiếng Anh câu nói của Gandhi: “Let us be clear regarding the language we use and the thoughts we nurture. For what is language but the expression of thought? Let your thought be accurate and truthful, and you will hasten the advent of sawraj even if the whole world is against you.”

[ii]  Galtung, J. (1990). Cultural Violence. Journal of Peace Research, 27(3), 291-305 (trang 291).

[iii]  Galtung, J. (1990). Cultural Violence. Journal of Peace Research, 27(3), 291-305 (trang 294).

[iv]  Galtung, J. (1969). Violence, Peace, and Peace Research. Journal of Peace Research, 6(3), 167-191.

Galtung, J. (1985). Twenty-five years of peace research: Ten challenges and some responses. Journal of Peace Research, 22(2), 141-158.

[v]  “Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử”, Lê Đạt

[vi]  “Đấu tranh bất bạo động, con đường khó khăn và cực nhọc”, RFA phỏng vấn người đại diện đảng Việt Tân, 16/3/2014.

___________

BẤT BẠO ĐỘNG: TRÒNG DIỄN LUẬN?

Phần I: PHẢN KHÁNG CHỐNG BẠO LỰC: DIỆN VÀ ĐIỂM
Phần II: “TỰ VỆ HAY BẠO ĐỘNG?” & “BẤT LỢI VÀ CÓ LỢI CHO AI?”
Phần III: HẠN CHẾ CỦA DIỄN LUẬN BẤT BẠO ĐỘNG & TẠM KẾT

Bình luận về bài viết này