vietsoul21

Archive for the ‘Văn Hóa’ Category

Tưởng Năng Tiến – Một Người Hiểu Chậm

In Liên Kết, Văn Hóa on 2013/02/02 at 10:27

Hệ thống chính trị thế nào thì hệ thống giáo dục tương ứng như vậy.”

DSX

Chắc rảnh – và rảnh lắm – nên nhà văn Phạm thị Hoài xoay ra kiếm chuyện (cà khịa) với đồng nghiệp chơi, cho nó qua ngày:

“… tác giả văn chương, chung quy có ba loại. Loại dành cho đồng nghiệp, tác giả của tác giả. Loại dành cho công chúng, tác giả của độc giả. Và loại dành riêng cho sự tự mê hoặc của những tác giả tự phong.”

 Loại thứ nhất hiếm hoi, là những người không thể thay thế, mất một ai trong số họ là cơ thể văn chương nhân loại tàn phế một bộ phận trọng yếu… 

Loại thứ hai đông hơn và là đối tượng chính của các nhà điểm sách, phê bình và nghiên cứu văn học. Đánh giá về tài năng và tầm cỡ của họ là việc phụ thuộc chủ yếu vào khí hậu và môi trường văn hóa…

Loại thứ ba đông hơn cả, nhưng chỉ đáng quan tâm ở khía cạnh họ là những kẻ làm ngôn ngữ xói mòn nhanh nhất, ngốn nhiều giấy mực và byte nhất, và là thủ phạm chính khiến văn chương bị xóa thành công khỏi danh sách nhu yếu phẩm tinh thần của con người…”

Tôi cũng đã có lúc học đòi theo chuyện “văn chương” nên đọc xong đoạn văn thượng dẫn mà không khỏi … bần thần (chút đỉnh) khi tự xét rằng chắc (chắn) mình thuộc loại … thứ ba. Cái loại viết “với phương châm thà bị tống vào thùng rác còn hơn không tồn tại.”  Nói cho nó gọn: cái thứ người cầm bút như tôi thiên hạ gọi là lều văn, túp văn, hay chòi văn, hoặc chuồng văn … gì đó!

Cùng với đám chuồng văn này, nước Việt còn có một hiện tượng độc đáo khác nữa gọi là chuồng học – theo như cách mô tả của phóng viên báo Dân Trí , đọc được vào hôm 5/ 9/2012:

Huổi Chát là một bản Mông chừng vài chục nóc nhà ở huyện nghèo Mường Tè. Hôm chúng tôi có mặt, chỉ còn 7 ngày nữa là đến ngày hội khai giảng, nhưng những gì bày ra trước mắt thật đắng lòng: Một căn lều tranh tre nứa lá gió thổi tứ bề, xiêu vẹo, ghế gãy bàn long, ủn ỉn trong đó một cặp lợn mán, được cô giáo cắm bản giới thiệu là trường học…

Cô giáo Đinh Thị Vin nói bằng tiếng Mông, vẫy chúng xuống lớp. Lớp học là một căn chòi lá rộng độ bằng 4 chiếc chiếu đôi xiêu vẹo, vách tre vọc vạch, hở hoác. Bên trong bàn ghế gãy nát, đầy mạng nhện, ngổn ngang phân heo. Không biết đã từ bao giờ, trường học của lũ trẻ đã trở thành nơi trú ngụ cho một cặp heo mán với 4 heo con. Có người trong số chúng tôi gọi đùa, giọng không ít cay đắng: “Đây là chuồng học chứ đâu phải trường học...”

Ảnh: Dân Trí

7 năm trước, cô giáo Đinh Thị Vin từ Phú Thọ rừng cọ đồi chè lên Mường Tè theo tiếng gọi tình nguyện…Và giờ, cô giáo người Kinh đã trở thành đứa con của Huổi Chát, của Nậm Manh, nói tiếng Mông để dạy tiếng phổ thông, ăn mèn mén, sắn khô, măng rừng, với ước mơ giản dị là một ngày nào đó sẽ có một đứa trò nhỏ người Mông thi đậu vào đại học.”

Vạn sự khởi đầu nan mà. Qua khỏi bậc tiểu học (nghĩa là sau giai đoạn thụ giáo ở những chuồng học) học sinh sẽ được nghe giảng bài bằng tiếng của người Kinh, và bước chân vào những trường trung học bề thế hơn nhiều – như cái trường này đây: Trường THCS Nậm Kè.

Ảnh: Dongsongxanh

Phải đợi cho đến khi lên đến bậc đại học thì những mầm non Việt Nam – xuất thân từ chuồng học – sẽ mới có cơ hội bước vào những cơ sở giáo dục hoành tráng, ở tầm mức quốc tế, được giảng dậy bằng Anh ngữ, theo như … dự án (Bắt Tay Xây Dựng Trường Đại Học Trí Việt) đã được thông báo, từ nhiều năm trước:

Sáng 7.11.2007, tại trụ sở Ủy ban về người VN ở nước ngoài (NVNƠNN) TP.HCM, Câu lạc bộ Khoa học và Kỹ thuật NVNƠNN (OVSCLUB) và Hội đồng sáng lập Dự án trường Đại học tư thục Trí Việt đã ký kết Thỏa thuận hợp tác: xây dựng một trường đại học chính quy hiện đại, trên tinh thần thực học để đào tạo nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công cuộc hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước.

Đại diện cho Hội đồng sáng lập Dự án Đại học tư thục Trí Việt là bà Tôn Nữ Thị Ninh, Chủ tịch Hội đồng và đại diện của OVSCLUB là TSKH Trần Hà Anh, Trưởng Ban điều hành. Buổi lễ ký kết diễn ra với sự chứng kiến của Ban Chủ nhiệm Ủy ban NVNƠNN, Ban Liên lạc NVNƠNN TP.HCM…

Theo kế hoạnh, khoảng năm 2010 trường sẽ bắt đầu tuyển sinh cho một số khoa và dự kiến đến năm 2020 sẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, không chỉ cho Nam Bộ mà còn vươn rộng ra phạm vi toàn quốc.”

Nguồn ảnh: talawas

Nói vậy (ngó bộ) vẫn chưa đã miệng nên trong những cuộc phỏng vấn sau đó, bà Tôn Nữ Thị Ninh – người được mô tả là “một nữ ngoại giao lừng lẫy một thời” – còn cho “nổ” thêm vài lần nữa, khiến rất nhiều người bị ù tai:

– Luật chơi của Trí Việt là: nói không với thiếu trung thực.

– Hiện dự án còn trong giai đoạn cấp phép, trước dự tính đặt ở Vũng Tàu nay thì đặt ở TP. HCM. Gọi là trường quốc tế bởi vì sẽ dạy bằng tiếng Anh kể từ năm thứ 2, với lập luận rằng thanh niên Việt Nam thời hội nhập phải có tiếng Anh như là một ngôn ngữ làm việc của mình, ngoài tiếng mẹ đẻ…

Coi: sống trong một chế độ mà lường gạt, dối trá và nghi ngờ là chủ trương xuyên suốt mà bà Tôn Nữ Thị Ninh lại đặt ra “luật chơi là nói không với thiếu trung thực” và còn nói bằng ngoại ngữ nữa (cơ) thì “giai đoạn cấp phép” e sẽ  còn “bùng nhùng” cho đến Tết hoặc (không chừng) cho tới khi … bà ấy chết!

Theo nhà báo Huy Đức: “Chủ nghĩa xã hội là một thực thể chỉ có thể hiểu được bằng sự trải nghiệm” (*).  Tuổi đời của bà TNTN (ngó bộ) hơi nhiều, thời gian “trải nghiệm” với xã hội chủ nghĩa (xem ra) cũng không phải ít. Rõ ràng, bà là một người hiểu chậm.

Bữa nay –  nhằm ngày cuối tuần – tôi cũng đang (rất) rảnh nên xin được phép góp ý cùng bà Tôn Nữ Thị Ninh, với hy vọng giúp cho chuyện xây dựng viện đại học Trí Việt được nhanh chóng  và toàn hơn chút xíu.

Về địa điểm, tôi đề nghị bà Ninh nên lắng nghe qua lời khuyên của một nhân vật có thẩm quyền – giáo sư  Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT: ” Không ‘bôi trơn’ không có đất đâu!”

Kế tiếp, xin nghe lời phát biểu của một nhân vật đã có kinh nghiệm (và thành công) trong việc thành lập một đại học tư ở Việt Nam – qua lời tường thuật của giáo sư Đào Trung Đạo, đọc được trên RFA vào hôm 9 tháng 9 năm 2012:

Mới đây tôi có một người bạn ở Việt Nam du lịch sang Mỹ – anh ta khá thành công trong những dự án kinh doanh kể cả việc đầu tư thành lập đại học tư thục…

Dựa vào sự hiểu biết chung chung của tôi (cũng như của hầu hết mọi người  về chế độ cọng sản hiện nay) nên tôi hỏi anh (giả bộ ngớ ngẩn): nói chung anh chốt cho tôi hiểu một điểm quan trọng nhất về lý do của sự hiện hữu và tồn tại của toàn bộ những cơ sở sinh hoạt kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế, báo chí, tòa án… (dĩ nhiên không thể kể vào danh sách này  những cơ sở do chính quyền lập ra) ở Việt Nam hiện nay, thì câu trả lời khá ‘hài’ của anh ta là:ở tất cả những cơ sở đó luôn luôn có một cái ‘bàn thờ vô hình’ trên đó ‘ngự’ một cán bộ cọng sản đã được bố trí ngồi vào đó bất kể khả năng và tư cách của anh ta. Và ở phía dưới cái bàn thờ đó các anh có thể bỏ công sức làm bất cứ điều gì các anh cho là đúng đắn hữu ích trong một giới hạn có thể chấp nhận được (giới hạn này khá rộng rãi kể cả những hành vi tham nhũng, vô đạo đức) nhưng tuyệt đối không được đụng đến cái bàn thờ này, nhất là đừng có ý định ngồi vào đó thì mọi chuyện sẽ ‘cũng được thôi’.

Ngẫm nghĩ về nhận định khá ấn tượng của anh bạn tôi thấy mình vẫn thuộc vào loại ‘thiếu đào sâu tư tưởng’ vì sờ sờ trước mắt toàn bộ con dân Việt đều bị đặt dưới cái bàn thờ khổng lồ là cái Lăng Bác ở Hà Nội! Vì chủ nghĩa cộng sản chính thức đã trở thành  một tôn giáo và đúng như di huấn của Marx ‘tôn giáo là thuốc phiện’ cho nên Đảng đã biến dân chúng thành những người nghiện kinh niên.

 Nhưng nghĩ xa hơn thêm chút nữa, căn cứ vào những gì đã và đang xảy ra thì tôi thấy: Thứ nhất, bàn thờ cũng có nhiều thứ bậc cao thấp. Thứ nhì,  giữa những anh ngồi trên những bàn thờ khác nhau đó không phải là lúc nào họ cũng ‘nhất trí’ nhưng nhiều khi lại còn âm thầm tìm cách ‘đàn áp’, hất cẳng nhau vì ngồi trên những bàn thờ này vốn là những ma quỉ. Đấy là cảnh tượng của một thứ tôn giáo thờ ma quỉ. Tình hình chính trị hiện nay dường như đang diễn ra sự cạnh tranh thứ bậc của ba bàn thờ ma quỉ: ‘Tổng Bí thư’, ‘Chủ tịch Nước’, và ‘Thủ tướng’ dưới sự chứng kiến câm nín của ‘Bàn thờ Bác.”

Có lẽ vì chưa chọn được một cái “bàn thờ” thích hợp nên nhiều năm đã trôi qua mà Đại Học Trí Việt vẫn còn đang phải … chờ cấp phép. Sự cân nhắc và thận trọng của bà Tôn Nữ Thị Ninh, trong hoàn cảnh hiện tại, nên được đánh giá cao. Nếu không, mai hậu, Đại Học Trí Việt sẽ gặp “rắc rối” (y như Đại học Dân lập Hùng Vương bây giờ) chỉ vì chọn nhầm … cái bàn thờ  nên gặp “rắc rối” và lôi thôi lớn – theo như tường thuật của BBC, nghe được vào hôm 19 tháng 9 năm 2012:

Thời gian gần đây, hai chị em ông Đặng Thành Tâm đã gặp một số rắc rối. Ngoài việc bà Yến bị tố cáo không trung thực, ông Tâm cũng bị đình chỉ chức Chủ tịch và Hiệu trưởng Đại học Dân lập Hùng Vương, cơ sở mà ông hỗ trợ tài chính, hồi tháng Ba vì “vi phạm nguyên tắc quản lý.”

Trong khi chờ đợi thực hiện Dự Án Đại Học Quốc Tế Trí Việt (Tri Viet International University Project) giảng dậy bằng Anh Ngữ, hàng ngày vẫn có những cô giáo ở miền xuôi như cô “Đinh Thị Vin từ Phú Thọ rừng cọ đồi chè lên Mường Tè theo tiếng gọi tình nguyện… nói tiếng Mông để dạy tiếng phổ thông, ăn mèn mén, sắn khô, măng rừng, với ước mơ giản dị là một ngày nào đó sẽ có một đứa trò nhỏ người Mông thi đậu vào đại học.”

Cùng lúc, nhiều bậc thức giả cũng đang chăm lo những dự án “giản dị” không kém – như Dự Án Bữa Cơm Có Thịt của của tiến sĩ Trần Đăng Tuấn và nhà văn Phạm Ngọc Tiến (cùng với nhóm bằng hữu của hai ông) cho những học sinh ở vùng cao. Trước những sự kiện này, nhà báo Trương Duy Nhất đã thốt lên đôi lời vô cùng cảm khái:

“Có một lúc nào đó, chúng ta góp tiền không phải để mua thịt cho các bé học sinh nghèo Tây Bắc, mà để dựng tượng đài những thầy cô giáo trẻ từ xuôi lên sống và dạy học ở Tây Bắc? Sẽ không phải là tượng đài hoành tráng. Hãy là tượng đài mà người ta nhìn thấy ở đó cái rét tê buốt trong lớp học và ánh lửa nhẫn nại trong bếp độc thân.”

Rồi ra, không chừng, dám cũng sẽ có tượng đài của bà Tôn Nữ Thị Ninh – người (trước khi chuyển qua từ trần) đã có ý hướng độc đáo là sẽ xây dựng một trường đại học quốc tế, với sứ mệnh Trí Cao – Tâm Rộng –  Tầm Xa trong một chế độ mà những kẻ cầm quyền tầm nhìn thì chỉ thấp bằng con kiến, và lòng dạ thì bé xíu như một cái cây tăm.

T.N.T

(*) Huy Đức. Bên Thắng Cuộc. Westminster: OsinBooK, 2012. Vol.2.

Tiểu Bối – LƯU MANH HÓA TRÍ THỨC

In Cộng Đồng, Liên Kết, Văn Hóa on 2012/12/31 at 11:25

Theo số liệu thống kê cho biết : Cả nước hiện có hơn 9. 000 Giáo Sư, 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ và 2.700.000 cử nhân đại học [1] . Một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Việt Nam hiện nay có nhiều điều kiện để trở thành nước có nền kinh tế phát triển như : nguồn lao động trẻ, thuận tiện giao thông, có nhiều loại tài nguyên,…. Tuy vậy, nước ta vẫn trong cái vòng luẩn quẩn của nghèo nàn, lạc hậu. Nguyên nhân chính là ở yếu tố con người , do đất nước chúng ta không tôn trọng giá trị con người , không tôn trọng trí thức đích thực. Yếu tố con người chưa được quan tâm thích đáng trong khi nó mới là nhân tố chính cho sự hưng thịnh/ suy yếu của 1 quốc gia. Một xã hội bảo thủ, trọng thành tích, hám danh sĩ diện với bằng cấp thường đi đôi với sự coi thường sự tiến bộ của khoa học , kỹ thuật đương nhiên sẽ tụt hậu. Và Việt Nam đã và đang tụt hậu. Cũng theo số liệu thống kế cho biết các chuyên gia WB tính toán “Việt Nam phải mất rất lâu nữa mới đuổi kịp các nước trong khu vực Đông Nam Á: 158 hoặc cũng có thể là 175 năm với Singapore, 95 năm với Thái Lan và 51 năm với Indonesia.” [2]

Vấn đề đầu tư vào giáo dục luôn quyết định hưng, suy của một quốc gia. Nền giáo dục của Việt Nam và cả xã hội Việt Nam làm nhân tài không có đất dụng võ. Với bằng cấp tràn lan, làm người Việt ảo tưởng về mình. Mỗi năm chúng ta có rất nhiều kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ, giáo sư mới nhưng nền kinh tế của chúng ta lẹt đẹt. èo uột , đất nước chúng ta lạc hậu. Nếu tính từ hàm Thứ trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản [3] . Và với số lượng hùng hậu GS, TS, Ths, Cử nhân đã nêu trên , Một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Nhưng hiện vẫn đốt đuốc tìm lao động chuyên gia, thiếu hẳn những công trình khoa học – sáng tạo – sáng chế được ứng dụng vào thưc tiễn cuộc sống… Trong khi nền kinh tế sản xuất vẫn là nhân công giá rẻ, miệt mài với gia công phụ thuộc, công nghệ thì vẫn đang loay hoay ở trình… “sản xuất mì tôm”.

Người Hàn Quốc họ có quyền tự hào vì họ xây dựng được những sản phẩm mang tính thương hiệu quốc tế như : Sam Sung, Huyndai . Người Nhật có thể vỗ ngực tự hào với Sony, Toyota . Sing có quyền hãnh diện về hàng xuất khẩu điện tử của mình ra khắp thế giới,…Hoàn toàn thiếu một sản phẩm Việt sánh ngang tầm các quốc gia khác trên thế giới.

Thực tế này cho thấy, chất xám Việt đang bị lãng phí. Lãng phí từ khâu đào tạo ( đào tạo quá nhiều GS, TS, Ths giả và dỏm) , lãng phí cả khâu sử dựng ( Nhân tài thực sự chưa được tin dùng và sử dụng hợp lý và trọng dụng họ).

Người Việt, trí thức Việt, dân Việt trách móc Xã hội này đôi khi, nhưng nếu nhìn kỹ lại, thì chính họ chính chúng ta tạo nên Xã hội này. Trí thức Việt nói riêng , dân Việt nói chung nhiều lúc đôi khi có xu hướng, chờ đợi mong mỏi một vị minh quân, 1 vị lãnh đạo tài ba xuất chúng nào đấy xuất hiện để đưa lối dẫn đường họ và lãnh đạo đất nước đang tụt hậu này, nhưng họ quên rằng không ai dẵn dắt và không ai hành động tốt hơn họ tự dẫn dắt mình định hướng cho mình. Đã đến lúc cả dân tộc này và giới trí thức Việt cần nhìn thẳng và nhìn thật vào chính mình, nhìn vào thực tế và tự gánh trách nhiệm cũng như vài trò của mình để tự thoát ra cái vòng luẩn quẩn này chứ không phải một ai đó, 1 vị cứu tinh nào đó hay 1 vị minh quân còn ẩn dật đâu đó.

Nghèo , dốt, thua kém người khác chưa hẳn là cái tội . Cái tội là ở chổ : nghèo, đói , lạc hậu , thua kém người khác nhưng lại không biết, hay biết mà không chiu thừa nhận và tệ hơn là phải phủ nhận mình nghèo bằng mọi giá vì cái sĩ , để rồi không chịu tìm tòi hướng đi, lối thoát cho mình . Và nếu chúng ta không khắc phục được sự yếu kém của đất nước, nạn nhân cũng chính là chúng ta. Chúng ta là nạn nhân của chúng ta.

Bất cứ xã hội nào, trí thức và yếu tố con người mới là yếu tố hàng đầu để đưa đất nước đi lên. Nước Mỹ phồn vinh với giấc mơ Mỹ và là miền đất Hứa của biết bao người trên thế giới, Người Hàn Quốc chấp nhận “ăn mày chất xám” ở phương tây, tinh thần Samurai của Nhật…. Sao không để cho trí thức Việt được tự do trong sáng tạo, tự do trong tư tưởng, tự do trong lựa chọn của mình !? Để họ được cống hiến !?

Ở một góc độ nào đó, có thể nói và khẳng định rằng, đất nước không phát triển được như người ta là vì trí thức Việt chưa phát huy hết vai trò và sứ mệnh của mình. Và lại ở 1 góc độ nào đó, họ bị kiềm kẹp, bị cột, bị trói chặt tư duy, tư tưởng, và cả ý thức hệ, họ cũng muốn sống, muốn cống hiến lắm , muốn được hy sinh nhưng ý thức hệ, sự khác biệt trong tư duy và tư tưởng đã làm cho họ không được chọn, và họ bị cuốn vào vòng xoáy luẩn quẩn của giới trí thức Việt bao đời nay, vòng xoáy của một xã hội mà ngay cả đến trí thức cũng bị đẩy vào con đường “lưu manh hóa”, ở đó nhân phẩm của trí thức bị người khác chà đạp và tự mình chà đạp lên mà sống ,để rồi họ không kịp nhận ra họ vừa là “nạn nhân” mà còn đồng thời là “thủ phạm” . Họ hành hạ nhau và dẫm đạp lên nhau mà sống:

– Một bác sĩ với mức lương èo uột, 3 đồng 3 cọc , chết đói, anh ta tìm đủ cách làm khó bệnh nhân để được nhận “lót tay”. Nhưng khi anh ta sử dụng các dịch vụ khác, anh ta lại bị làm khó lại.

– Một thương gia ( doanh nhân) vì chạy theo lợi nhuận và tham đồng tiền bất chính không ngại bán rẻ lương tâm mình sản xuất ra những hàng hóa chất lượng kém, độc hại tới sức khỏe của người tiêu dùng, miễn sao lợi nhuận nhiều, xả chất thải độc hại ra môi trường, nhưng rồi chính anh ta hủy hoại môi trường chung anh ta đang sống trong đó và sẽ ra sao nếu anh ta mua phải những sản phẩm độc hại khác do người khác cũng vì tham lam mà sản xuất ra như anh ta.

– Từ Vụ sập cầu Cần Thơ, cho đến sập cầu cống, hàng loạt công trình thủy điện quốc gia công trình dân sự khác,.. những kỹ sư làm việc trên công trình đó đã làm hại hoặc tiếp tay cho người khác làm hại rất nhiều người. Sẽ ra sao nếu như những kỹ sư này đứng dưới công trình của chính họ thiết kế và xây dựng .

– Một nền giáo dục thay vì dạy con người ta cách học, nó chỉ dạy con người ta cách tin và phải đặt niềm tin vào đấy, kết quả tạo ra khg phải 1 thế hệ mà nhiều thế hệ cứ bắt thế hệ nối tiếp sau cứ tiếp tục đặt niềm tin. Bởi lẽ thế hệ này tiếp tục “dẫn dắt” ( chăn dắt!?) thế hệ kia.

– Một công chức, phải bỏ ra 1 khoản tiền lớn để mua chạy chức, hối lộ cho người này, cho cơ quan kia để có cái ghế, cái chức. Khi có cái ghế, cái chức rồi lại quay lưng ra cướp phá, cướp bóc , hạch sách nhũng nhiều người khác để lấy lại những thứ mà mình từng bỏ ra . Và xem điều đó là lẽ đương nhiên và cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp diễn !

– Một nhà báo, nhà văn, người cầm bút vì lợi ích cá nhân riêng, có thể nhẫn tâm bẻ cong ngoài bút, viết láo và viết liều để nhận được những đồng tiền bẩn tưởng chừng như chỉ làm tổn hại tới người đọc nói riêng và nền văn báo chí văn hóa nước nhà nói chung nhưng anh ta cũng đang tự biến mình thành trò bỉ ổi và lố bịch trong mắt người đọc, vì người đọc bây giờ đủ thông minh để nhận biết đâu đúng , đâu sai. Bởi trước khi hốt bùn để ném vào mặt người khác, thì bàn tay anh ta cũng đã lấm bùn trước rồi….

Và cứ thế , mỗi người trong xã hội cứ tự hại mình và hại người khác. Có thể nói trí thức Việt Nam nói riêng và người Việt nói chung vừa tự hại mình và hại người , nạn nhân của nhau, nạn nhân của định hướng xã hội, nạn nhân của sự lãnh đạo và dẫn dắt tồi tệ .

Trong một xã hội, khi “sự thật” bị bóp méo, bị bẻ cong Trí thức Việt từ chổ ” người sáng” cũng trở thành “người mù” , người thẳng cũng thành “còng lưng” . Hoặc im lặng, cúi đầu chấp nhận để mà sống yên ổn thay vì cất tiếng nói phản kháng rồi bị vùi dập.

Với mức giá, mức lương hiện tại , Xã hội còn nhiều trí thức không sống được vói mức lương thực của mình. Người lao động trí thức bị bần cùng hóa và bị đẩy đến chỗ không còn có thể nghĩ gì khác ngoài việc làm sao kiếm cho đủ tiền để sống. Đây chính là một trong những lý do làm nên sự tha hóa, biến chất của giới lao động trí thức, thay vì đầu tư vào nghiên cứu , nâng cao chuyên môn tay nghề ,phát minh ra cái này, khám phá ra cái kia họ lao đầu vào kiếm tiền kiếm sống, làm sao phải sống được cái đã. Chính điều này dẫn họ tới kết quả làm nhiều việc trái nghề, trái lương tâm, trái đạo đức xã hội…

Mua quan, bán chức, mua vị trí công tác diễn ra đều đặn trong giới lao động trí thức trong Xã hội để rồi khi lên nắm quyền thì Vua quan thi nhau chia chác, nhũng nhĩu, quan liêu, thằng lên sau thì dốt hơn nhưng lưu manh, khốn nạn hơn thằng trước. Khốn khổ cho một xã hội !

Chưa dừng lại ở đó ,Giới lao động trí óc ở Việt Nam không những bị bần cùng hóa về đời sống vật chất, mà còn bị bần cùng hóa hay tự bần cùng hóa cả về tư duy đời sống tinh thần khác. Hiện tượng này đang thành ra phổ biến : những người, lẽ ra , phải làm việc với sách vở lại rất ít đọc sách, không quan tâm đến các vấn đề xã hội. Họ tự phủ nhận vai trò và trách nhiệm xã hội của họ. Hoặc học nhiều đọc nhiều, có bằng này bằng nọ chỉ để tự hào, để khoe khoang, để lên lớp nhau, để mơn trớn nhau vì cái tính sĩ diện hảo. Và cách người Nga đáp trả: Mày giỏi (giáo dục cao, học giỏi …) sao mày không giàu (sao mày không thể bán chút kiến thức để kiếm tí tiền tiêu cho sang trọng). Có lẽ câu nói đó hơi sống sượng. Nó hơi chợ búa. Nhưng nó chỉ ra một thứ rất đáng nghĩ rằng: nếu như kiến thức của bạn không mang lại giá trị cho chính bản thân bạn thì bạn cần kiến thức đó làm gì. Để trang trí hả? Để khoe mẽ hả? Nói thẳng ra, nó hơi chợ búa, nhưng đấy là cách nghĩ của một con buôn chứ không phải 1 trí thức.

Mặt khác , một số đông trí thức và tự nhận mình là trí thức lại cố định , cột chặt và để người khác cột, trói chặt tư duy và suy nghĩ của mình bằng những định kiến có sẵn, những quan điểm tâm lý đám đông và những quy luật bất thành văn khác về tư duy và quan điểm của họ . Điều này dẫn đến họ không tự do tư duy, không có tính bức phá không có khả năng phán xét đâu đúng đâu sai , họ chỉ biết nghe, biết chấp nhận những điều từ người khác mớm cho, từ trên đưa xuống không cần phán xét coi nó đúng hay sai, lợi hại ra sao. Sự bần cùng hóa tinh thần là một trong những nguyên nhân khiến giới lao động trí óc ở đây đánh mất sức mạnh, đánh mất khả năng phân biệt đúng sai, phải trái, và khiến họ có thể vi phạm các chuẩn mực đạo đức mà vẫn cảm thấy yên ổn lương tâm. Họ tìm sự yên ổn bằng cách sử dụng các lý lẽ mang tính ngụy biện để bào chữa hoặc hợp pháp hóa cho sự vi phạm đạo đức hay sự vi phạm pháp luật. Họ đã dùng cái sai này để ngụy biện bao che, phủ lấp cái sai khác, trong khi những giải pháp đúng đắn, khoa học đã không được lựa chọn.

Chính sự bần cùng và tự bần cùng hóa về tư duy, đạo đức và tinh thần, đời sống, trí tuệ đã khiến cho trí thức Việt Nam bị tha hóa nhiều mặt, mất cả năng lực làm việc trong lĩnh vực chuyên môn của mình, mất luôn cả bản lĩnh văn hóa, cả ý thức về sự đúng sai, cả phẩm chất đạo đức công dân. Để tự giữ cho mình trong sạch, chuẩn mực còn khó, nói chi đến chuyện dám đứng lên bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật ! Chính vì thế nhiều người còn chút lương tri họ chấp nhận cắn răng chiệu đựng và thõa hiệp với cái ác và cái xấu để yên ổn mà sống.

Họ dối trá, tiếp tay cho sự dối trá, họ lừa lọc, tiếp tay cho sự lừa lọc, họ sĩ diện và tiếp tay cho sự sĩ diện. Tất cả nó làm nên dung mạo của nền trí thức bị “lưu manh hóa”.

Đất nước này đã phải trả cái giá quá đắt cho tệ nạn “lưu manh hóa trí thức” này rồi, bây giờ đã đến lúc chúng ta phải biết tự đứng dậy, dám nhìn thẳng, nhìn thật vào sự thật, nhìn vào thực tế,… tự bản thân mình thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy, đừng tự hại mình và hại người nữa.

[1] Số liệu Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Wales, Úc) đưa ra.
[2] Tính toán của các chuyên gia dựa trên báo cáo của WB năm 2007
[3]Theo TS Nguyễn Khắc Hùng, nguyên Chuyên viên Đối ngoại, Học viện Hành chính Quốc Gia.

OH, 30/12/2012

Nguồn: FB Tiểu Bối

Đông Ngàn Đỗ Đức – Âm và dương

In Liên Kết, Tạp văn, Triết Học, Văn Hóa on 2012/07/22 at 09:15

 

Image

Minh họa: Đỗ Đức

Âm dương của người Trung Hoa là ngày và đêm. Biểu tượng là hình tròn chia đôi theo hình chũ S.

Âm dương của người Việt là hình tượng trời và đất. Trời tròn, đất vuông, trời tròn là bánh dày đất vuông là bánh chưng. Trời là dương, đất là âm. Hình tròn là cực đại, hình vuông  là cực tiểu. Khi tăng liên tục số cạnh của hình vuông lên thành đa giác, đến một giới hạn cuối cùng  thì hình vuông biến thành hình tròn. Vũ trụ quan của  người Trung Hoa là diễn biến theo thời gian, vũ trụ quan của cha ông ta là vật chất. Là đất.

Âm dương theo quan niệm của ta lành hơn, không đối chọi như Trung Hoa mà là sự phát triển từ một chất rồi chuyển sang dạng khác. Đó là một vũ trụ quan rất nhân sinh, đồng nhất mà không đối chọi như ngày và đêm.

Dân ta còn gọi tổ quốc là đất nước. Với tôi, đất và nước cũng là một hình thái âm dương. Đất dương, nước âm. Hai loại vật chất này gắn kết tạo cho  cuộc sống muôn loài sinh sôi. Cũng như vậy, đàn ông và đàn bà có thể coi là âm và dương. Có đàn ông và đàn bà mới có thế giới loài người.

Có một lần về quê, thấy nhà ông chú treo phía bàn thờ một miếng vải đỏ vẽ ba buông, bảy tròn, hình có chỗ lồng đè lên nhau (giờ thì tôi không còn nhớ cấu trúc của nó nữa), Tôi hỏi chú: Đó là gì vậy? phải chăng là hồn vuông vía tròn, đây là ba hồn bảy vía? Chú cười bảo, năm nay chú tròn bảy mươi, thím vẫn còn, con cái có nếp có tẻ không hư hỏng thì được treo cái này, nó là tượng trung cho sự hoàn thiện. Lúc ấy tôi còn bé cũng chẳng hiểu thế nào.

*   *   *

Một người bạn trên net reo lên với tôi: “ Bánh dày bánh chưng đúng là triết lý âm dương đấy anh. Tôi hồi nhỏ thường nghe bà già hát ru mấy đứa em:“Ba vuông sánh với bảy tròn / Đời cha vinh hiển đời con sang giàu”, “Lạy trời cho đặng vuông tròn / Trăm năm cho đặng lòng son với chàng”

Rồi anh dẫn tiếp Kiều:“Trăm năm tính cuộc vuông tròn / Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”. Hoặc: “ Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn / Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay” .

Anh bảo tôi:

“Biểu tượng vuông-tròn , tròn vuông lồng lên nhau còn xuất hiện ở rìa ngoài mặt trống đồng Yên Bồng: Trời tròn vì trời là dương, đất vuông vì đất là âm, nên biểu tượng trời là hình tròn, đất là hình vuông như trong hình ảnh chiếc bánh chưng, bánh giày vậy.” ( BS Hồ Hải))

Lại buồn cười khi mới ở quê ra tỉnh, đem cái suy nghĩ đồng quê với bạn bè, chúng bảo mình là âm lịch.Âm lịch như cái gì đó lạc hậu chậm tiến như lệ làng so với phép nước. Nhưng  rồi hóa ra không hẳn thế. Âm lịch hay dương lich ví phố phường và  thôn quê chỉ là cái vách ngăn cách mỏng manh con người áp tư tưởng vào, chứ mỗi mặt nó  đều chứa đựng các giá trị không thể thay thế cho nhau…

Với người nông dân , đất là bầu trời, âm đấy mà là dương. Bầu trời ấy tròn  trặn thì người nông dân mở mày mở mặt, tròn trặn miếng cơm manh áo.

Với những lợi ích nhóm thì đất cũng là bầu trời tiền lồng lộng của những kẻ đầu cơ, vì đất nó đẻ ra tiền. Phân đinh âm dương ở đây có khác. Đất trong tay nông dân làm ra lương thực là an ninh cả nước. Đất trong tay lợi ích nhóm thì đẻ ra tiền chỉ thu lợi cho một số người.  Khi vận động thì vẫn trên mảnh đất đó  hai cách đầu tư tạo ra đối nghịch như sáng và tối, như âm và dương. Cuộc diễn biến âm dương  ở ta đang đi vào những chặng quyết liệt, điều chỉnh thế nào cho hòa hợp thì cần cái nhìn có tầm chiến lược ở tầm vĩ mô. Vậy hãy cùng chờ xem!

Nguồn: FB Dongngan Doduc