vietsoul21

Posts Tagged ‘Gạc Ma’

Màn chiếu tướng nguy hiểm đang diễn ra trên Biển Đông

In Chính trị (Politics), Kinh Tế, Liên Kết, Thế giới on 2014/05/17 at 00:28

ARLINGTON, Virginia , May 14 ( UPI ) – Việc Trung Quốc triển khai hạ đặt giàn khoan dầu 981 ngoài khơi trong vùng bờ biển của Việt Nam vào đầu tháng cho thấy đã có một sự leo thang nghiêm trọng trong vùng Biển Đông vốn đã căng thẳng. Khả năng có một cuộc giao tranh hải quân giữa Trung Quốc và Việt Nam coi như là cao nhất kể từ khi cuộc đụng độ lần cuối của họ trên đảo Gạc Ma (rặng đá ngầm Johnson) vào năm 1988 gây tử vong cho khoảng 70 thủy thủ Việt Nam . Nhiều viên chức ở Washington đánh giá là Bắc Kinh thiếu thận trọng, nhưng trong tâm trí của Trung Quốc thì hành động khiêu khích này bắt nguồn từ lôgic chiến lược.

Điều gì đã xảy ra?

Bắc Kinh khẳng định rằng, dựa trên nghiên cứu lịch sử, phía Nam Biển Đông và tất cả các nguồn tài nguyên của nó thuộc về Trung Quốc. Đường chín đoạn mới được thổi phồng tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của họ, và Trung Quốc đã triển khai tàu thuyền đánh cá, tàu cảnh sát biển, và các tàu hải quân để biểu dương xác định quan điểm của họ.

Việt Nam coi vùng biển này, những gì mà họ gọi là Biển Đông, nằm trong vòng 200 dặm của Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), là nhà của họ. Cả Việt Nam và Philippines phản ứng mạnh mẽ đối với động thái của Trung Quốc. Indonesia , Brunei, và Malaysia cũng đã phản ứng tương tự, mặc dù lặng lẽ hơn .

Trung Quốc biết triển khai giàn khoan dầu 981 sẽ làm Việt Nam nổi giận do đó họ đã điều phối hơn 80 tàu để bảo vệ. Việt Nam đáp lại bằng cách triển khai 29 tàu hải giám, cảnh sát biển và các tàu hải quân, và nhiều chiếc trong số đó đã bị hạm đội Trung Quốc phun nước vòi rồng và đâm thủng.

Những việc đó mang ý nghĩa gì?

Đầu tiên, từ một quan điểm chiến lược toàn cầu, Bắc Kinh đang hành động nhịp nhàng với đồng minh mới nhất của mình là Nga. Hai nước này đã thành lập một liên minh chiến lược trong ba năm qua, tuy rằng nó có thể là mong manh, để chống lại tầm ảnh hưởng của Mỹ. Khi Nga xâm chiếm Crimea và tung hoành trên mặt trận miền Tây (Âu) với máy bay ném bom Bear, thì Trung Quốc đang hành động tương tự ở phía Đông. Đó là một gọng kìm toàn cầu sử dụng chiến tranh phi đối xứng (asymetric warefare), trong trường hợp này là sử dụng tối thiểu lực lượng với tính toán cực cao và mưu kế triệt thoái. Đây là món đòn khôn ngoan cực kỳ, nó không quá mức để kích hoạt một phản ứng quân sự từ Mỹ, nhưng nó vừa đủ để tăng tiến mục tiêu của Nga và Trung Quốc. Điều này một phần thúc đẩy bởi chính quyền Obama loại bỏ khả năng chiến đấu một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận. Trung Quốc và Nga đang phân tâm và phân tán lực lượng Hoa Kỳ. Trong “36 chiến lược” (tam thập lục kế) kinh điển của người Trung Quốc thì đây là “Nước đục thả câu”

Thứ hai, Trung Quốc thấy Mỹ trong tiến trình triệt thoái chiến lược như một quyền lực toàn cầu . Trung Quốc nhận thức được một số điểm thất bại an ninh quốc gia của Mỹ như Iraq (rời quá sớm) Afghanistan ( COIN là quá khó ) , Libya (một nhà nước bất thành hậu chiến thuật “lãnh đạo sau lưng”) , và Yemen (thành lập căn cứ mới của al-Qaeda bất chấp nhiều cuộc oanh tạc bằng máy bay gọn điều khiển từ xa.) Bắc kinh cho rằng Washington không thể giải mã Pakistan, kẻ làm “tà hữu” (frienemy) với Mỹ và là á-đồng-minh của Bắc Kinh. Nó (BK) cũng cho rằng chính sách can thiệp vào Trung Đông của TT Obama vốn đã được quảng bá ầm ĩ trong bài diễn văn Cairo năm 2009 đã bị thất bại bởi vì khủng bố thánh chiến Hồi giáo gia tăng và toàn bộ những mùa Xuân Ả rập đã đưa đến kết quả cay đắng. Biển Đông bị buông bỏ mặc cho ai chiếm lấy. Người TQ gọi chiến thuật này là “Mục hỏa băng giang” (ngồi nhìn lửa cháy bên kia sông), để cho đối phương cạn kiệt lực lượng quân sự và đó sẽ là lúc để ra tay.

Thứ ba, nói về chiến lược khu vực, trong khi TQ chứng kiến thấy Mỹ đang dần suy yếu họ vẫn rất cảnh giác về chuyến công du Châu Á của Bộ trưởng Quốc phòng Hagel, chuyến đi đã “đắp thịt trên xương” vào chiến lược quay trục Châu Á với các hiệp ước quốc phòng và hỗ trợ an ninh. Điều này bao gồm cả việc tăng cường diễn tập quân sự hàng năm với các đồng minh Đông Nam Á như Philippines mà cuộc diễn tập Balikatan (Vai sánh Vai) đã bắt đầu từ ngày 05/05. Theo đó thì sự khiêu khích của TQ nói chung coi như là thọc một “cú đấm trực diện” với “chiến tranh phi đối xứng” vào “vòng đấm chắc nịch”(haymaker) “tham gia khu vực” truyền thống của Mỹ. TQ tin rằng nếu ra tay thật nhanh thì càng khó cho Mỹ giúp đỡ các đồng minh Á Châu về sau.

Thứ tư, TQ đang lo sợ về một VN đang càng ngày càng mạnh. Kinh tế nước này đang phát triển. Hà Nội đang gầy dựng quân đội và hải quân để bảo vệ huyết mạch chính của mình là Biển Đông – trọng điểm của ngành hàng hải, ngư nghiệp và năng lượng. Hà Nội cũng biết rằng nước của họ rất dễ bị xâm nhập và tấn công từ ngoài biển vào.

TQ muốn VN phải ngoan ngoãn thuần phục theo lý tưởng về an ninh quốc gia theo kiểu truyền thống Khổng giáo và vương triều trung tâm của họ. Họ vẫn còn nhớ cuộc chiến tranh trừng phạt năm 1979 vào Bắc VN lúc Hà Nội đang có đội quân lớn thứ tư trên thế giới. VN bị đẩy lùi rất ít và mỗi bên bị thiệt hại khoảng 30 ngàn người trong vòng một tháng giao tranh. Theo cái nhìn của Bắc Kinh thì làm suy yếu ngay cái sức mạnh mới chớm nở của VN là một đòn khôn ngoan.

Rồi đây sự việc nơi Biển Đông sẽ tiến về đâu? Có vẻ là tình hình đang tồi tệ hơn. Không có phe nào chịu lùi bước. TQ thậm chí còn có thêm những động thái tương tự trong những tuyên bố chủ quyền vùng biển với Nhật. Trừ khi những cái đầu tỉnh táo ở Bắc Kinh thắng thế còn không thì những rắc rối này có thể dẫn tới một tính toán sai lầm khủng khiếp.

Một nước VN bị dồn vào chân tường có thể vùng ra đánh trả bằng sức mạnh nhiều hơn mức mà Bắc Kinh có thể tưởng tượng được. Một khối đồng minh ASEAN vốn lỏng lẻo sẽ bị buộc phải đoàn kết cùng nhau để chống lại đối thủ chung. Nhật Bản đang chống lại và tái vũ trang. Mỹ chưa hẳn là đang cạn kiệt và thương tổn tới mức mà Tư lệnh Thái Bình Dương và Hải quân Hoa Kỳ phải bị loại khỏi vòng chiến.

Có vẻ như TQ đang bị lóa mắt bởi ý tưởng “Trung Quốc trỗi dậy”, niềm tự hào quốc gia sáng ngời, và vì thành tựu kinh tế vang dội. Như thế thì TQ đang phải đương đầu với mối hiểm nguy vì chính họ đã vi phạm cái châm ngôn chiến lược của mình, “Rút thang đi sau khi kẻ thù đã leo lên nóc nhà” – nghĩa là nó đang đi trên con đường tự cô lập mình trên lãnh vực quân sự do các hành động gây hấn bất cẩn trọng. Các chiến lược gia TQ khôn ngoan hơn sẽ giúp làm giảm nhiệt tình hình vô kể.

Nguồn: UPI

Nguyễn Thông – Điểm chạm

In Lịch Sử, Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2013/03/30 at 09:12

 

Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bao nhiêu năm nay, dù hình thức là hữu nghị, 4 tốt 16 chữ vàng nhưng thực chất luôn căng thẳng, thậm chí đối địch, tiềm ẩn quá nhiều bất ổn. Nguyên do thì nhiều, nhưng có thể thấy rõ trước hết là bởi những mưu đồ, dã tâm của giới cầm quyền Trung Quốc, ngoài ra là do cách ứng xử “khôn khéo” của những người đang lãnh đạo Việt Nam. Phải nhìn cho rõ để xác nhận bản chất của vấn đề, chứ không phải cái gì cũng đổ tại “thùng rác” Trung Quốc.

Xét về bản chất, từ bao lâu nay, ý đồ mở rộng lãnh thổ, bành trướng trên biển, thực hiện mộng bá quyền (thực chất là đế quốc) của giới cai trị Trung Quốc không hề thay đổi. Càng về sau càng lộ rõ. Và rõ nhất là khi những kẻ đóng mác cộng sản nắm quyền thống trị xứ ấy. Chỉ có điều chúng có sách lược tinh vi, biết che đậy đánh lừa dư luận, cương nhu đầy đủ, bài bản rõ ràng. Mức độ ngày càng tăng, bản chất ngày càng nghiêm trọng, hành động ngày càng dồn dập, ý đồ ngày càng lộ rõ. Những hành vi, vụ việc xâm chiếm lãnh thổ, chủ quyền Việt Nam là chứng minh hùng hồn nhất, không thể chối cãi về thủ đoạn “miệng nam mô, bụng một bồ dao găm” của bè lũ cầm quyền Bắc Kinh.

Quan hệ “anh em” giữa hai nước được xác lập từ năm 1950 nhưng ngay sau đó Trung Quốc đã công khai bộc lộ ý đồ thôn tính Hoàng Sa, qua bản tuyên bố về hải phận (năm 1958). Thì cứ cho lúc bấy giờ do hoàn cảnh nên chúng ta đã không thể phản ứng (chứ điều này thì lịch sử đã phán xét rồi), tạm thời không trách những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam khi ấy. Tiến thêm bước mới, năm 1974, thấy miền Bắc không tỏ thái độ rõ ràng, Trung Quốc hoàn tất việc chiếm trọn Hoàng Sa. Năm 1975, Trung Quốc chiếm tiếp một số đảo trong quần đảo Trường Sa khi ấy hoàn toàn thuộc chủ quyền nước Việt Nam anh em, tức là Bắc Kinh xác định hướng nam tiến rất rõ ràng. Đỉnh điểm năm 1988 Trung Quốc xua quân chiếm đảo Gạc Ma, đảo quan trọng chiến lược nhất trong một cụm đảo của quần đảo Trường Sa. Điều rất khó hiểu là khi đó Gạc Ma hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam trên cả thực tế lẫn pháp lý, nhưng người anh em Trung Quốc chiếm mà Việt Nam chỉ phản ứng rất yếu ớt. Từng hãnh diện có lực lượng hải quân hùng mạnh sau chiến thắng 75, vậy mà các nhà lãnh đạo thời ấy không dám ra lệnh phản công chiếm lại đảo, để đảo bị mất đến tận bây giờ. Một ông em tôi, thượng tá công an (trên blog Kha Trà Phương) đã đặt lại vấn đề mà tôi thấy rất có lý: Ai phải chịu trách nhiệm về việc mất đảo Gạc Ma, lịch sử cần nêu rõ, biên lại cụ thể khách quan, không thể lờ tít tìn tịt, ù xọe mãi. Sau khi đã hoàn chỉnh chiến lược chiếm biển Đông, nhiều năm trở lại đây, Trung Quốc liên tục khiêu khích Việt Nam, xua tàu dân sự ra vi phạm chủ quyền, bắt ngư dân, bắt tàu đánh cá, cắt cáp dầu khí, tuyên bố lập thành phố Tam Sa, tổ chức tuyến tua du lịch, khẩn trương xây dựng cơ sở hạ tầng, đưa giàn khoan ra biển Đông, tăng cường lực lượng hải giám, hải quân… Trước kia, những tranh chấp giữa hai nước phần lớn chỉ xoay quanh vấn đề Hoàng Sa (bởi Trường Sa đương nhiên thuộc chủ quyền Việt Nam) thì càng về sau càng chuyển hướng đậm về Trường Sa. Trung Quốc đã cố ý coi Hoàng Sa là của họ, không có gì bàn cãi nữa, giờ chỉ cần “giao thiệp” với nhau về Trường Sa thôi. Rõ ràng trong sự lấn lướt của Trung Quốc có phần trách nhiệm của nhà cầm quyền Việt Nam. Mềm nắn rắn buông. Cứ mềm mãi nên phải chịu lùi.

Lạ là, khi thực tế sờ sờ như vậy, vẫn có những vị tỏ vẻ có “đầu óc chiến lược” khôn ngoan hơn người, lên giọng mắng mỏ người khác, đại loại “thế các ông muốn gì, muốn chiến tranh chắc?”. Hỏi chi hỏi lạ. Ai chả muốn hòa bình, ai chẳng ghét chiến tranh. Chả nhẽ chỉ có mấy vị là muốn hòa bình thôi ư? Thời nhà Trần thế kỷ 14, thế giặc mạnh, không ít vị vương công tột đỉnh, bộ mặt triều đình, như Trần Kiện, Trần Ích Tắc đã chả khuyên thế thủ, cầu hòa, đầu hàng đó sao. Lúc ấy thiên hạ có mấy ai dám chê các ả Trần. May mà cấp cao hơn của vương triều Trần đã nhận ra chân tướng họ. Còn nhiều vị lãnh đạo ngày nay bám lấy chủ trương khôn khéo, mềm dẻo, cố gắng duy trì hòa bình, ổn định. Vì đại cục, không sử dụng vũ lực. Ta cao đạo thế nhưng Tàu nó không thế. Nó cứ muốn đẩy ta mãi đến cùng đường. Chúng không cho ta yên ổn. Vậy thì cái sự ổn định chông chênh, bị tấn công liên tục đó ai dám bảo đảm là nó sẽ ổn định.

Trung Quốc đã không thèm đếm xỉa đến sự khôn khéo của Việt Nam. Việc dùng tàu hải quân bắn cháy tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam ngày 20.3 là liều thuốc thử của họ. Có lẽ nhà cầm quyền Trung Quốc đã mừng khi thấy sự phản ứng chậm chạp, yếu ớt của Việt Nam. Thay vì phải lên tiếng phản đối ngay sau khi nắm được vụ việc, mãi 2 ngày sau người phát ngôn của Việt Nam mới lên tiếng, thậm chí báo Tiền Phong phải lột bài đã đăng. Điều cần làm ngay thì không làm, nhưng Việt Nam lại rất nhanh chóng trao tiền giúp ngư dân bị nạn, tặng huy hiệu Tuổi trẻ dũng cảm, tuyên truyền ca ngợi việc bảo vệ lá cờ khi tàu bị cháy cabin… Tất cả những điều đó đều cần, nhưng chỉ có giá trị với chính chúng ta, chứ không mảy may tác động đến Trung Quốc để làm thay đổi hành vi của họ. Chúng ta chỉ nhanh thứ không cần nhanh, và rất chậm điều đừng để chậm. Khi sử dụng hải quân, Trung Quốc đã quyết định đụng đến điểm chạm nguy hiểm có thể nổ bùng phá tan mối quan hệ mà họ không cần giữ nữa. Sự phản ứng yếu ớt của Việt Nam cũng sát sạt vào điểm chạm không có lợi cho chính Việt Nam: thế giới xem thường, dân chúng mất lòng tin, Trung Quốc được đà lấn tới.

Chả ai muốn chiến tranh, nhưng phải giữ được tư thế của một dân tộc, một quốc gia. Dư luận thế giới sẽ không ủng hộ ta khi ta nổ súng trước, nhưng sẽ đồng tình, đứng về phía ta khi ta cứng cỏi không chịu cúi đầu khuất phục trước Trung Quốc. Nó bắn cháy tàu ta, trên vùng biển chủ quyền ta, ta có quyền tự vệ, bắn trả, phản công. Cứ sợ nó khiêu khích, lấy cớ để làm càn thì kéo dài sự sợ hãi khiếp nhược đến bao giờ. Hùm sói có khi nào chê thịt. Hay là đợi đến khi mạnh, đủ lực để chống chọi. Mình mạnh, nó không mạnh chắc? Mình đi tắt đón đầu, nó chấp nhận đi đường vòng ôm đuôi chắc?  Sao chẳng nhớ lời dạy của cụ Hồ “chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới… Không, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào, chúng ta phải đứng lên” (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến– 1946). Và xin các vị “yêu hòa bình” trước khi dậm dọa người khác “muốn chiến tranh chắc?” hãy ngẫm câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên:
“Hỡi những tấm lòng lạnh tanh máu cá
Những nhiệt tình xuống quá độ âm
Có nghe tiếng ngư lôi và cao xạ
Giặc đến đánh ta thì ta đánh trả
Giữ hòa bình phải đâu bằng mọi giá
Giá hòa bình là quật ngã bọn xâm lăng” (Sao chiến thắng)

Quật ngã bọn xâm lăng. Đó là sự khôn khéo nhất để giữ hòa bình, một nền hòa bình đích thực. Đừng tự ru ngủ mình và nhân dân mình nữa.

30.3.2013
Nguyễn Thông

(Ghi thêm: Bài này lẽ ra được đăng ngay sau khi tàu hải quân Trung Quốc bắn cháy tàu ngư dân Việt Nam nhưng không may mấy bữa qua nhà cháu có chút việc, đành để dang dở. Tự an ủi, sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, chủ quyền còn lâu dài, còn nhiều gian nan vất vả, chả ai nỡ trách mình).

Nguồn: blog Nguyễn Thông