vietsoul21

Posts Tagged ‘thành phần thứ ba’

Trí trá loài nhai lại

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Tạp văn on 2015/04/11 at 11:57

Hổng biết cắc cớ làm sao mà đầu mùa nạn tháng Tư này tui lại lò mò đọc được quyển sách “tuyển” dành riêng cho giới học thuật với tựa đề “Bốn thập niên qua – Việt Nam, Hoa-kỳ và Di Sản Cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai[1].

Khi tui mới đọc chương đầu “Di Sản Biết Trước – Khai quật gốc rễ Việt Nam thời hậu chiến[2] của giáo sư, tiến sĩ Ngô Vĩnh Long thì tui ngã ngửa. Mèn đéc ơi tui tưởng là tui đang đọc tài liệu thuộc ban tuyên huấn của đảng csvn. Tỉnh hồn dậy thì mới biết là tui không phải đang sống ở đầu thập niên 70 trước ngày mất nước mà là bốn thập niên đã qua.

Tui vốn dĩ sinh sau đẻ muộn. Vào ngày 30-4-75 thì tôi chỉ vừa mới 17 tuổi, chưa đủ tuổi để đi quân dịch và không tham gia vào cuộc chiến. Nghĩa là tui hổng có gì dính dáng đến chính quyền VNCH ngoại trừ được lơn tơn đi học, đi chơi khỏe re trong cuộc sống tự do cho đến ngày mất nước.

Tui thuộc vào diện loi choi, cỡ em út chàng sinh viên VNCH du học Ngô Vĩnh Long. “Giải phóng” vào tui bon chen cũng chui vào đại học được mấy năm hà. Nhưng “tự do là cái con c..”[3], chịu đời hổng thấu nên tui thối lui bỏ chạy. Mà phận đời tỵ nạn cộng sản lo lắng tứ bề thì hổng có ăn học đến nơi đến chốn. So với chàng sinh viên VNCH du học được học bổng tiến thân có bằng tiến sĩ, giáo sư với chữ tài chắc nhỉnh nhỉnh hơn một bồ thì chữ nghĩa của tui chỉ vừa đầy cái lá mít. Trầy vi tróc vẩy lắm thì tôi mới đọc xong hết bài tiểu luận hàn (hàng) lâm (lầm).

Toàn thể bài tập trung vào những năm sau cuối của nền Đệ Nhị Cộng Hòa và là một bản cáo trạng về chính quyền “Thiệu”, Sài Gòn đàn áp thành phần thứ Ba.  Kết luận của bài viết là vì lý do đó mà di sản hậu chiến đồng nghĩa với việc không có một chính quyền hòa hợp dân tộc cho Việt Nam.

Cái kết luận này coi bộ nó hươm hướm vừa đánh vừa xoa theo lời phát biểu của ông Nguyễn Thanh Sơn ca bài con cá hòa giải, hòa hợp. Lũ “đĩ điếm, trộm cướp, ngụy quân, ngụy quyền phản quốc bỏ nước ra đi” giờ đã thành “khúc ruột ngàn dặm” trong “tình tự dân tộc” dưới chiêu bài hòa giải, hòa hợp rồi mà anh Long. Sao anh Long lại lên dây cót trật nhịp dzậy.

Đọc xong tui có cảm tưởng là ông Long này hoặc có mối tư thù với ông Thiệu hoặc có mối thù truyền kiếp với chính quyền VNCH. Toàn bài ông kết tội chính quyền VNCH vi phạm ngừng bắn, đàn áp thành phần thứ Ba, và dồn đẩy Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) ở thế phản công. Ông hăng say “gài khung” định hướng người đọc về “chế độ Thiệu (Kỳ)”, “chính quyền Sài Gòn” tồi tệ, ác ôn và tung hê thành phần thứ ba, MTGPMN tiến bộ vì “hòa bình” và “độc lập”.

Ông Long kết luận như thế này: “Chế độ đã thể hiện bản thân độc tài không chỉ trong các biện pháp đàn áp của chính quyền trung ương mà còn bởi sự lạm quyền sâu rộng trong tất cả các lãnh vực xã hội. Một phần nguyên nhân gốc rễ của vấn đề bại hoại này là do trật khớp, phân cực, và đàn áp các phong trào xã hội và chính trị nêu trong chương này. Nếu việc đàn áp lực lượng Thành phần thứ Ba không xảy ra vào năm 1973-1975, di sản chính trị của chiến tranh có thể đã khác cho Việt Nam thời hậu chiến.”[4]

Tui không thích màu mè, hoa lá cành, mà cũng không cần phải tế nhị hay lịch sự để nói thẳng rằng bài viết chứa đầy những dối trá trắng trợn vô liêm sĩ. Ông GS, TS này chắc hẳn tin tưởng chắc nịch rằng chẳng có thằng thường dân VNCH nào rờ được vào quyển sách hàn lâm này, hoặc giả rằng có thì cũng không đủ ngôn ngữ, kiến thức, và tài liệu để phản bác những dối trá đầy rẫy trong bài tiểu luận.

Kinh nghiệm bản thân sống 17 năm thanh xuân dưới thời VNCH và (mới sương sương) bốn năm đời tui có đảng (đì) sau 1975 đã cho tui trải nghiệm những sự thật hoàn toàn trái ngược với những gì trong chương.

Ông viện dẫn, “Lực lượng quân đội địa phương bao gồm Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, và Nhân Dân Tự Vệ. Hai nhóm đầu là lính toàn thời gian được tổ chức thành tiểu đội, trung đội dưới sự kiểm soát của Quận và Tỉnh. Nhóm thứ ba là lính bán thời gian, đúng ra nằm trong lứa tuổi 15 đến 18 hoặc lớn hơn 43 tuổi, hoạt động trong làng xã. Trong thực tế bất cứ ai có thể cầm súng đều được bắt vào Nhân Dân Tự Vệ.”[5]

Trong làng xã của tui và mấy lũ bạn từ vùng quê đến tỉnh tui chưa thấy đứa nào dưới tuổi vị thành niên bị bắt vào Nhân Dân Tự Vệ như ông nói. Ông nói cho dân Mỹ ở xứ Huê-kỳ này hổng biết gì thì nó mới tin. Chứ lũ nhỏ miền Nam tụi tui sống tự do, ăn chơi học hành cho đến ngày mất nước. Làm gì có ai buộc phải cầm súng như bọn MTGPMN bắt trẻ em vị thành niên cầm súng giết dân. Hình ảnh, tên tuổi tui trưng cho ông coi nè[6]. Ông suy bụng ta ra bụng người.

1973 – Two teenage Viet Cong soldiers at camp near Cai Lay, one carrying a captured U.S. automatic weapon (Hai lính trẻ em VC tại vùng đóng quân gần Cai Lậy, một em mang súng tự động HK tịch thu.

Hai trẻ em đặc công khủng bố cs bị bắt tại Đà Nẵng năm 1972

Ông lại còn đổi trắng thành đen buộc tội ông Thiệu (VNCH) bắt người dân tản cư ra khỏi vùng cộng sản tấn công và không cho người dân trở lại nơi cộng sản chiếm đóng (vùng “giải phóng” theo từ ngữ tả cảnh hoa lá cành của cánh tả).

Besides generating new refugees, the Thieu regime forcibly relocated refugees from one province to another. On 22 March 1973, the New York Times reported a disclosure by the RVN regime that it had begun moving 100,000 of a planned 600,000 persons from the central provinces into areas directly north of Saigon.

Má ơi, má sống dậy nói chuyện với thằng ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản này cho con. Dưng không mà người ta chạy ra khỏi vùng Việt Cộng và VNCH phải tái định cư họ ở nơi an lành hở. Sau mùa hè đỏ lửa 1972, cộng quân đánh phá miền Trung làm bao nhiêu người dân tan hoang cửa nhà trong cơn loạn lạc. Chạy giặc. Giặc cộng.

Nhà tui ở dọc đường Quốc Lộ số 1 ở miền Trung nên hể cứ có chiến trận là bà con lục tục, gồng gánh chạy nạn cộng sản đi qua hà rầm. Mà luôn luôn là vì quân cộng sản hết “tổng tấn công” rồi “tổng nổi dậy” làm dân sợ phải chạy về vùng tự do, vùng có quân VNCH bảo vệ. Dù còn nhỏ nhưng Má tui cũng dẫn tui đi cứu trợ nạn nhân cộng sản rồi cưu mang cho những người bỏ ruộng, bỏ nhà dưới quê về thị xã ở cho an toàn. Tui chưa thấy có ai đi về vùng “giải phóng” tránh quân VNCH. Ngay cả bản thân tui cũng chạy nạn cộng sản hai lần, mùa hè đỏ lửa 1972 và mùa xuân quốc hận 1975.

danangchaygiac

Dân chúng thành phố Đà nẳng chạy nạn Cộng Sản khi miền Trung thất thủ đầu năm 1975.

Người dân trốn chạy CS từ Huế vào Đà Nẵng trên tàu Trường Thanh

Chạy bộ rồi cũng hết đường chạy vì cộng sản đặt mìn giật sập cầu thì đành mướn thuyền chạy dọc biển vào Nam.

Chạy nạn cộng sản miết hết đường sống ở VN thì vượt biển chạy đi nước ngoài.

Ông làm ơn kiếm được người nào chạy từ miền Nam ra Bắc (ngoại trừ kiểu “con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”) tỵ nạn thì kể cho tui nghe chơi nghe ông Long.

Ông Uwe Simon-Netto, người phóng viên chiến trường người Đức lâu năm tại Việt Nam chứng kiến thực tiễn và viết:

Họ không chạy qua sông Bến Hải về miền Bắc và họ cũng không chạy vào vùng được gọi là giải phóng – ‘giải phóng’ bởi việt cộng. Cho đến giờ phút chót, những người tị nạn chạy vào vùng đất đang bị thâu hẹp dần còn lại của chính quyền Sài Gòn; 2 triệu người chạy vào Đà Nẵng. Đường quốc lộ hướng về Sài Gòn chật kín người chạy nạn làm cản trở cả cuộc tiến công của quân Bắc Việt, và đến hồi kết cuộc thì ‘thuyền nhân’ một số lớn không những bỏ chạy từ miền Nam nhưng từ các cảng miền Bắc nữa. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại có cuộc lưu đày khổng lồ như thế – thời Tàu thời Pháp đô hộ và thời Mỹ. Thế mà họ gọi là giải phóng? Lúc đó tôi ngờ ngợ nhưng bây giờ thì tin chắc rằng lý lẽ đã tử nạn trong cuộc chiến. Và ngay cả trung thực trí tuệ cũng bị sát hại.”[7].

Ông có bao giờ phải chạy giặc không và có chút trung thực trí tuệ[8] nào hay chỉ nhởn nhơ ở Hoa Kỳ đọc tin làm báo cáo láo? Vì ông vẫn chưa tiêu hóa hết cái cặn bã dối trá thời 70 nên đến giờ này đem ra nhai lại?

Rồi ông còn đổ thừa là Mỹ tăng viện trợ kinh tế để biện minh cho vi phạm ngừng bắn bởi quân chính quy miền Bắc và quân MTGPMN. Thì là mà họ bị “buộc” phải tấn công.

Chính phủ Cách mạng Lâm thời (CMLT) xem hành động của Quốc hội Hoa Kỳ (gia tăng viện trợ kinh tế cho miền Nam Việt Nam, 450 triệu USD cho ngân sách 1975, 100 triệu hơn năm 1974) như là một cam kết mới cho chính quyền VNCH. Để đáp trả, quân đội CMLT gia tăng phản công chống lại lập trường quân sự hiếu chiến của Thiệu, và đến đầu tháng Hai năm 1975, tám quận và một tỉnh (Phước Long) rơi vào tay CMLT.”[9]

Ai cũng rõ cái chiến thuật “vừa đánh, vừa đàm”[10] của cs miền Bắc. Đàm cho có, đánh cho được.

Ông còn chạy tội cho quân xâm lược CS Bắc Việt cùng quân MTGPMN “phản công” và buộc tội quân đội VNCH “tấn công”? Ai vi phạm lệnh ngừng bắn tết Mậu Thân, ai vi phạm hiệp định Paris gia tăng vận chuyển chiến cụ vào miền Nam? Ai đem tăng T54, tàu tên lửa[11], pháo 122, 130 li, B40, AK47 vào Nam?

Kinh nghiệm bản thân tôi thì tôi rõ ràng. Nhưng nói chuyện với giới hàn lâm mà không trích dẫn thì má nó khi (dễ), và bị gạt bỏ là không có bằng chứng. Thời đại in-tờ-nét bây giờ thì những thường dân i-tờ như tui cũng không khó nhọc gì tìm ra nguồn trích dẫn. Chắc là trời cao run rủi hay sao mà tui lại tìm được bài báo phân tích nguồn trích dẫn (hay nói đúng hơn là lời thú tội) từ ngay miệng kẻ sát nhân[12].

Ông hoài niệm ngây thơ cụ “mãi mãi tuổi 20” với cái thành phần thứ Ba với cái ảo tưởng rằng nó tựa như một thực thể chính trị có quyền lực và khả năng làm cái kiềng ba chân cho miền Nam Việt Nam. Hang ổ rắn cộng sản miền Bắc đã mưu mô đẻ ra cái bình phong MTGPMN và thâm nhập, giật dây thành phần thứ Ba cho giấc mộng cưỡng chiếm miền Nam rõ ràng trong các tài liệu lịch sử của đảng csvn. Thực tế đã tạt gáo nước lạnh vào mặt và tát vào má của cả miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 mà ông vẫn còn giả ngơ, làm lơ, phớt lờ sự thật.

Chỉ có những người thiếu trung thực trí tuệ tối thiểu mới sử sự như vậy. Họ là những kẻ trí trá tri thức[13], dùng hào quang “trí thức” để bao biện, bịp bợm cho khuyết điểm sai lầm của họ.

Không ít những thành phần cánh tả Tây phương bừng tỉnh từ cái tát vào mặt sau ngày 30 tháng 4 khi họ hiểu được bản chất của bọn cầm quyền csvn. Joan Baez, người nghệ sĩ cánh tả nhận sai khi biết mình sai và quay lại 180 độ với csvn. Baez đã ra tối hậu thư cho Đại Sứ LHQ của Việt Nam trước khi đăng thư ngỏ lên án chính quyền csvn bất nhân giam cầm, hành hạ cựu quân nhân VNCH và các nhà bất đồng chính kiến[14]. Baez cũng vận động với Tổng thống Carter đương thời cho hạm đội 6 cứu vớt thuyền nhân lênh đênh trên biển cả[15]. Còn kẻ trí trá tri thức như ông thì không nghe, không nhìn, không nói.

Ông phát biểu về thành phần thứ ba thời hậu chiến “Khi Mặt trận giải phóng đánh chiếm miền Nam, thì thành phần thứ ba này cũng bị dẹp luôn.[16]

Coi bộ cái trí trá tri thức, não trạng phẳng của ông không bao giờ đi trật đường rầy nên ông tỉnh queo, làm ngơ, phớt lờ rằng cột trụ cho cuộc chiến tranh đánh chiếm miền Nam là chính quyền Hà Nội, là quân chính quy cs miền Bắc. Sau hiệp định Paris họ đã chuẩn bị sửa sang đường mòn HCM, xây cất khu hậu cần, đường dẫn xăng dầu, tích trữ vũ khí để tấn công cưỡng chiếm miền Nam.[17] Ai dẹp thành phần thứ ba, ai cho MTGPMN về vườn?

Tui xin được gọi ông giáo sư, tiến sĩ Ngô Vĩnh Long là “ông thần” bởi vì ông đã phán những diễn giải mà ngòi bút phù thủy của ông trở thành câu quá ư chắc nịch đầy dữ kiện làm sự thật dường như không thể chối cãi. Vì chỉ có những người từ “trên trời rơi xuống”, không cần nhìn gương chiếu hậu, không mảy may ngó trước ngó lui mới coi người cõi trần này là những thằng dốt. Và đương nhiên chỉ có “ông thần” mới dám phán những kết luận trời ơi đất hỡi đó.

Nếu tôi nhớ không lầm thì ai đó có nói “lịch sử được viết bởi người chiến thắng”. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng lịch sử được viết bởi sử nô phục vụ cho quyền lực đương thời để trở thành chính sử. Và không thiếu những “sự thật” lịch sử được tô hồng bởi người bưng bô.

Theo giới hàn lâm thì bây giờ lịch sử được chia theo ba phương hướng: lịch sử truyền thống, lịch sử xét lại, và dã sử[18]. Bốn thập niên đã qua, một khoảng thời gian đủ để các thành phần cánh tả, các sử gia có thời gian để nhìn lại và nhận xét sự việc một cách khách quan và công bằng hơn cho phe thua cuộc. Keith Taylor, Edward Miller, Nguyễn thị Liên Hằng, Pierre Assalin, v.v… là một số sử gia bắt đầu quan tâm vào lịch sử xét lại để đưa cái nhìn của họ trung thực hơn về Miền Nam Việt Nam.

Cá nhân những người dân miền Nam Việt Nam vượt biên, vượt biển, nạn nhân cộng sản như chúng tôi đã buộc phải viết lên những trang dã sử[19], lịch sử thuyền nhân vì không ai (muốn) viết cho bên thua cuộc.

Riêng ông Long thì “mãi mãi tuổi hai mươi” trong chân lý “từ đó trong tôi bừng nắng hạ”[20] chẳng cần phải nghĩ lại, hay xét lại làm gì cho nó lăn tăn cái lương tâm.

Lúc tui học tiểu học thì được dạy rằng con bò thuộc về loại nhai lại với bao tử 4 phòng. Nó nhai lại bởi vì nó không có nhiều răng (hàm trên không có răng cửa và răng nanh), nhưng lại ăn nhanh nên không thể tiêu hóa cỏ vốn dĩ nhiều chất xơ. Khi được nhiều lần tiếp xúc với các giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ qua những buổi tham luận tại trường đại học Washington với sự tham dự của các gs, ts Hoa-kỳ, Việt Nam, và quốc gia khác thì tôi mới khám phá ra có một loài nhai lại khác.

Đó là những con bò trong giới hàn lâm.

Tuy nhiên con bò thì nó chỉ nhai lại những gì nó ăn vào. Còn loại bò hàn lâm thì khác hẳn ở chỗ là họ nhai đi, nhai lại những gì họ thu thập sau khi được mớm bởi thầy cô trong quá trình làm luận án, cũng như nhai đi nhai lại các “tinh hoa cặn bã” trong công trình của đồng nghiệp, đồng sàng đồng mộng cùng phe (tả) và các trích dẫn nguồn không kiểm chứng.

Ông Long tuyên bố “Tôi là nhà phân tích chính trị độc lập, không bao giờ nói dối, luôn nói thẳng suy nghĩ của mình.” Quả thật là ông không nói dối vì ông chuyên trích dẫn có nguồn (đúng hay sai không cần kiểm chứng). Nhưng ông là tên trí trá tri thức bằng cách giả ngơ, làm lơ, phớt lờ sự thật. Ông không hề nhắc đến ổ rắn độc Hà Nội, làm tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế, làm nghĩa vụ quốc tế  tiền đồn phe Xã Hội Chủ Nghĩa gây bao xương máu cho nhân dân hai miền Nam Bắc.

Ai đi xâm lược, ai gây chiến ông đà biết rõ.

MTGPMN, CPCMLT, thành phần thứ ba đều là những bình phong và con rối cho cơn sát máu của nhà cầm quyền Hà Nội mà ông tung hê như là những lực lượng độc lập. Ông không chấp nhận việc “TT Hoa Kỳ Nixon tuyên bố tiếp tục công nhận chính quyền VNCH là chính quyền hợp pháp duy nhất của miền Nam Việt Nam và lời phát biểu của ông Nixon công nhận VNCH là ‘chính quyền hợp pháp duy nhất’ gieo hạt mầm cho một cuộc chiến mới[21].

Ông lên án những phát ngôn của chính quyền VNCH thời bấy giờ “Thành phần thứ ba bị giật dây bởi cộng sản”, “Chính sách 4 không: không công nhận kẻ thù, không chính phủ liên hiệp dưới bất cứ ngụy trang nào, không trung lập hóa thiên cộng ở miền Nam Việt Nam, không nhượng bộ đất đai cho cộng sản”.

Tuy nhiên, khi nhìn lại lịch sử thì nó quả thật hoàn toàn đúng không sai một li. Sau khi đồng minh phản bội bán đứng VNCH cho Trung Cộng thì số phận mất nước bắt đầu trang sử nô lệ nội-thực-dân cs trên toàn đất nước Việt Nam.

Ông Long với nhà báo, điệp viên Phạm Xuân Ẩn là “bạn lâu năm”. Ông Thomas Bass, cũng là bạn ông Ẩn, một lần có hỏi là khi chết ông Ẩn sẽ đi về đâu.

Ông Ẩn cười cười nói rằng ông không lên thiên đàng vì khi sống đã nói láo quá nhiều. Mà chắc ông Ẩn cũng không bị đày xuống địa ngục vì nơi đó đã chật đầy các đồng chí cộng sản rồi. Ngay cả khi chết ông Ẩn cũng yêu cầu “đừng chôn tôi gần cộng sản”.

Về chuyện ông Thomas Bass phàn nàn việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam thì ông Long lại biện hộ: “Trước hết, Thomas Bass là người nước ngoài đến phỏng vấn ông Ẩn, thì ông Ẩn đã kiểm duyệt tới 90% những gì ông đã nói với Thomas Bass rồi, thế thì những gì ông đã nói cho Thomas Bass có thể bị thêm người khác kiểm duyệt, ví dụ trong nước không thích thì cắt thêm 2% nội dung cuốn sách nữa, theo tôi, cũng chả có vấn đề gì. Vấn đề tự kiểm duyệt rất quan trọng. Ở bất cứ quốc gia nào cũng vậy thôi, đều có chuyện tự kiểm duyệt.[22]

Ông Ẩn đã chết rồi nên không ai biết là ông ta có tự kiểm duyệt tới 90% hay không, nhưng có lẽ con số đó hoàn toàn ăn khớp với kinh nghiệm bản thân theo lối sống của ông Long. Thế thì “luôn nói thẳng suy nghĩ của mình” chắc không phải là một lời nói thật.

Ông Phạm Xuân Ẩn dù sống đằng sau bức màn tre chế độ độc tài cs (vì đi vượt biên đôi ba lần không được) nhưng cũng dám nói thật dù chỉ qua câu truyện diễu cợt. Còn ông Ngô Vĩnh Long sống ở xứ tự do nhưng lại trí trá tri thức.

Tuổi của ông cũng chỉ còn mười mươi năm nữa. Ông Ngô Vĩnh Long có bao giờ thử tự trả lời câu hỏi của ông Thomas Bass không?

© 2015 Vietsoul:21

[1] “Four Decades On – Vietnam, the United States and the Legacies of the Second Indochina War”, 2013, Duke University Press

[2] Ngô Vĩnh Long, “Legacy Foretold – Excavating the roots of postwar Viet Nam” in “Four Decades On” (Durham: Duke University Press, 2013). Sách đã dẫn, tr. 16-43.

Ngô Vĩnh Long, Member, Board of Science, Tran Nhan Tong Academy. He is a professor of History at Maine College, Orono, Maine, US. Ngô Vĩnh Long thành viên Hội đồng Khoa học Học Viện Trần Nhân Tông. Giáo sư sử học tại Trường Đại Học Maine, thành phố Orono, tiểu bang Maine, Hoa-kỳ.

[3] Từ đũng quần vươn lên…, gocomay’s blog

[4] Sách đã dẫn, tr. 39. “Authoritarianism has manifested itself not only in repressive measures by the central government but also by widespread abuses of power at all levels of society. Some of the roots of this sorry state of affairs go back to the dislocation, the polarization, and the repression of social and political movements outlines in this chapter. Had the repression of the Third Force not occurred from 1973 to 1975, the politcal legacies of the war might have been quite different for postwar Viet Nam.”

[5] Sách đã dẫn, tr. 20-21. “These local military forces, called by American military men ‘Oriental Minutemen,’ were the Regional Forces, Popular Forces, and the Popular Self-Defense Forces (PSDF). The first two groups were full-time soldiers organized into companies and platoons under provincial and district control, respectively. The third group consisted of part-time militia, supposedly boys and men age fifteen to eighteen or older than fourty-three, operating at the sub-district or village level. In reality, anybody who could carry a gun was good enough for the PSDF.”

[6] “Cách mạng” đưa trẻ em vào chỗ chết làm bia đỡ đạn.

[7]The wrong side won”, Uwe Siemon-Netto

[8] Intellectual honesty, “Intellectual honesty is honesty in the acquisition, analysis, and transmission of ideas. A person is being intellectually honest when he or she, knowing the truth, states that truth.

There are disincentives to intellectual honesty. Academics may find themselves pressured to argue for the stances of their benefactors, including governments and private entities that fund grants (in fact, this is trained into them in education, as the same pressures are exerted by teachers and professors upon their students).”

“Trung thực tri thức là trung thực trong việc thâu thập, phân tích, và truyền đạt ý tưởng. Một người được coi là trung thực tri thức khi họ biết sự thật và nói lên sự thật.

Có nhiều bất lợi, phản khích lệ trong trung thực trí tuệ. Giới hàn lâm có thể thấy chính mình bị áp lực để tranh luận cho quan điểm của các nhà bảo trợ họ, bao gồm cả các các tổ chức chính phủ và tư nhân cung cấp ngân khoản tài trợ (trong thực tế, điều này được huấn luyện trong giáo dục với những áp lực tương tự do các giảng viên và giáo sư tạo ảnh hưởng đến học sinh của mình).”

[9] Sách đã dẫn, tr. 36-37. “The PRG evidently interpreted Congress’s action as a renewed commitment to the RVN regime. In answer, the PRG forces increased their counterattacks against Thieu’s aggressive military stance, and by early January 1975, eight districts and a province (Phuoc Long) had fallen into the PRG’s hands.”

[10] “Vừa đánh, vừa đàm”, Tạp chí Cộng sản

[11]3 tàu tên lửa VN trong chiến dịch mùa xuân 1975”, kienthuc.net

[12]40 năm chân tướng xâm lược bị lật ngửa”, Dân Làm Báo

[13] Intellectual dishonesty, “Some intellectual dishonesty can be subtle. For example, relevant facts and information may be purposefully omitted when such things contradict one’s hypothesis, or facts may be presented in a biased manner or twisted to give misleading impressions.”

Trí trá tri thức, “Một số trí trá tri thức rất tinh tế. Ví dụ, những dữ kiện và thông tin đáng kể (liên quan, phù hợp) có thể bị cố tình loại bỏ khi các dữ kiện đó mâu thuẫn, trái nghịch với giả thuyết đưa ra, hoặc sự kiện có thể được trình bày một cách thiên vị hoặc bóp méo để tạo ra ấn tượng sai lệch.”

[14] Joan Baez’s Open Letter to The Socialist Republic of Vietnam

[15] “Chỉ cần có vài ngày để tổ chức buổi hòa nhạc tại Đài tưởng niệm Lincoln vào ngày 19 tháng 7 năm 1979 và xin giấy phép cho cuộc tuần hành. Tôi viết một lá thư cho TT Carter, trao tận tay cho ông, giải thích rằng cuộc tuần hành không phải là biểu tình phản đối, nhưng đúng hơn là biểu dương hậu thuẫn của người dân Hoa Kỳ cho bất cứ nỗ lực nhân đạo của TT để giúp đỡ thuyền nhân. Tôi đề nghị gởi hạm đội 6 giải cứu thuyền nhân và mời ông tham dự buổi hòa nhạc.

Ông không đến nhưng hơn 10,000 người đến tham dự buổi hòa nhạc. Khi buổi hòa nhạc chấm dứt chúng tôi thắp nến đi tuần hành đến nhà Trắng. Chúng tôi cầu nguyện ngay trước cổng nhà Trắng và sau đó tôi trở lại khách sạn. Tôi trở về phòng khách sạn kịp lúc mở máy truyền hình thấy Jimmy Carter bước qua sân cỏ nhà Trắng và nâng người lên ngay giữa phía sau cổng sắt lớn tuyên bố là ông sẽ gởi Hạm đội 6 đến Biển Đông. Tôi gọi điện thoại hỏi ông Tư lệnh Hải Quân rằng có thật vậy không, và ông nói đúng như vậy, tổng thống sẽ gọi cho tôi vào khoảng 9 giờ sáng ngày mai. Tổng thống gọi và chúng tôi chúc mừng nhau cho mọi việc suông sẻ.”

“It took only a few days to plan the concert at the Lincoln Memorial July 19, 1979, and arrange for permits for a march. I wrote a letter to President Carter, which was delivered to him by hand, explaining that the march was not in any way a protest, but rather a show of support from the American people who would back him in any humanitarian effort he made on behalf of the boat people. I suggested sending the Sixth Fleet out on a rescue mission, and then invited him to the concert.

He didn’t come, but the concert was attended by ten thousand people. When it ended, we marched to the White House carrying lit candles. We prayed at the gates, then I went back to the hotel. I got to my room just in time to turn on the television and see Jimmy Carter come out on the White House lawn, hoist himself up on the inside of the great iron fence, and announce that he would send the Sixth Fleet into the South China Sea. I called the navy undersecretary to see if it was true, and he said it was, and that the President would call me the next morning at around nine o’clock. He did and we exchanged mutual congratulations.”, Hồi ký Joan Baez

[16] RFA

[17]Bảo đảm kỹ thuật trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975”, qdnd.vn

[18] Traditional history, revisionist history, and wild history.

[19] Dã sử (một từ ngữ truyền thống Việt Nam và Trung Quốc dành cho lịch sử ngoại biên, không chính thống) là một phương thức tiếp cận lịch sử không dễ dàng trong chu kỳ xét lại-phản xét lại. Theo nguồn gốc và động cơ thì nó đối nghịch với lịch sử chính thống mà quan điểm dân dã (từ dưới lên trên), không chính thức, không được thừa nhận và đạp đổ hoặc (có lẽ quan trọng hơn nữa) không đếm xỉa đến phiên bản chính thức của sự kiện được diễn giải bởi chính quyền.

[20] “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời chân lý chói qua tim”, hai câu đầu bài thơ Từ Ấy của Tố Hữu

[21] Sách đã dẫn, tr. 18. “Nixon … announced that the United States would ‘continue to recognize the government of the Republic of Vietnam as the sole legitimate government of South Vietnam.’ … The statement that Nixon recognized the RVN as the ‘sole legitimate government’ in South Vietnam bore the seeds of a new war.”

[22]Muốn hiểu lịch sử, cần phải hiểu những vấn đề kinh tế“, Báo Lao Động online

Trần Trung Đạo – Bàn về tẩy não

In Lịch Sử, Liên Kết, Tạp văn on 2013/10/15 at 15:14

Tẩy não hay kiểm soát tinh thần là một tiến trình làm thay đổi nhận thức và niềm tin trong con người, qua đó một người hay một nhóm người sử dụng các phương pháp phi đạo đức để khuất phục kẻ khác làm theo các quyết định của một người hay của một nhóm người đó. Khái niệm tẩy não được biết đến từ lâu qua các tà đạo, chiến tranh, tình báo, tuy nhiên chỉ dưới các chế độ Cộng Sản kỹ thuật này mới được nâng lên thành quốc sách và được thực hiện một cách triệt để, có hệ thống, bao trùm mọi lãnh vực xã hội và trong mọi tầng lớp nhân dân.

Tẩy não một người

Chính sách tẩy não nhắm vào từng cá nhân được phát hiện lần đầu tiên qua hành vi của các tù binh Mỹ bị Trung Cộng bắt trong chiến tranh Triều Tiên. Một số binh sĩ Mỹ sau khi được trao trả đã thay đổi hoàn toàn cách suy nghĩ, thái độ và cả hành động. Tác giả Edward Hunter phỏng vấn nhiều tù binh bị bộ máy tuyên truyền Trung Cộng tẩy não và ghi lại trong tác phẩm gây tiếng vang lớn Tẩy não tại Trung Cộng (Brainwashing in Red China) xuất bản 1951. Nhà báo Edward Hunter trong tác phẩm Tẩy não, câu chuyện của những người đã thách thức nó (Brainwashing, The Story of Men Who Defied It) xuất bản 1956 cũng mô tả nhiều trường hợp những lính Mỹ bị bộ máy tuyên truyền Trung Cộng tẩy não.

Một vài trường hợp điển hình như Đại Tá Frank H. Schwable sau khi bị tẩy não đã lên đài phát thanh Trung Cộng tố cáo chính phủ Mỹ phát động chiến tranh vi trùng hoàn toàn tưởng tượng chống lại nhân dân Triều Tiên hay trường hợp Trung Sĩ Claude Batchelor từ chối trở lại Mỹ. Nhiều cựu tù binh, ngoại trừ giọng nói là của họ, từ câu văn đến dấu phẩy, dấu chấm, cách lên giọng, xuống giọng đều giống như vẹt đã được huấn luyện thuần thục.

Năm 1957, nhà xã hội học Albert D. Biderman trong bản tin của Viện Hàn Lâm Y Khoa New York đã liệt kê 8 biện pháp mà các quốc gia Cộng Sản dùng để tẩy não một người gồm (1) cô lập, tước đoạt mọi nguồn ủng hộ, làm cho nạn nhân tùy thuộc vào kẻ tẩy não (2) độc quyền hóa khả năng nhận thức, tập trung sự chú ý vào một mối quan hệ giữa kẻ tẩy não và nạn nhân, (3) làm suy yếu khả năng đối kháng về mặt tinh thần cũng như làm kiệt quệ về thể lực, (4) đe dọa, trồng cấy sự lo lắng, bất an và tuyệt vọng vào ý thức của nạn nhân, (5) ban đặc ân để khuyến dụ sự tuân hành, (6) làm cho thấy việc chống lại chỉ là hành động vô ích mà thôi, (7) phát triển một thói quen tuân phục, (8) chứng tỏ việc phản kháng chỉ làm thiệt hại cho lòng tự trọng hơn là việc đầu hàng có điều kiện.

Các phương pháp tẩy não của Trung Cộng đã làm quốc hội Mỹ phẫn nộ. Edward Hunter và nhiều tác giả khác đã được mời ra điều trần trước quốc hội Mỹ. Dù sao, nhờ cuộc chiến Triều Tiên mà nhân loại mới biết nhiều hơn về tẩy não, được gọi một cách văn hoa là “cải tạo tư tưởng” tại Trung Quốc và các nước CS, trong đó có Việt Nam.

Tẩy não một dân tộc

Những năm sau 1990, nhiều nhà sử học, nhiều nhà phân tích đổ xô đi tìm lý do tại sao phong trào CS thế giới sụp đổ, nhưng cũng có nhiều nhà phân tích, nhà sử học khác cho rằng việc truy tìm hiểu lý do là thiếu khoa học, chủ nghĩa CS sụp đổ là chuyện đương nhiên, câu hỏi đúng nên đặt ra là yếu tố gì đã giúp CS tồn tại đến hơn 70 năm tại Liên Xô và các nước Đông Âu. Phần lớn đồng ý là chính sách tuyên truyền tẩy não là cây cột chống đỡ chế độ CS. Có người còn cho rằng tẩy não đồng nghĩa với CS, đơn giản vì không có tẩy não, chế độ CS đã sụp đổ từ lâu lắm chứ không đợi đến thập niên 1990.

Hai cơ quan cầm đầu chính sách tẩy não tại các quốc gia CS là Ban Tư Tưởng Trung Ương Đảng (Việt Nam gọi là Ban Tuyên Giáo Trung ương) và Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng. Ban Tư Tưởng Trung Ương Đảng CS kiểm soát toàn bộ đời sống tinh thần của đất nước bằng một chính sách tuyên truyền tinh vi và có hệ thống khống chế tuyệt đối mọi lãnh vực từ truyền thanh, truyền hình, báo chí đến phim ảnh, bích chương, hội họp, nghệ thuật, nhà hát, sách vở v.v… Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng là cơ quan bảo vệ sự sống còn của đảng CS như một tổ chức chính trị và đóng vai trò “tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tổ chức cán bộ của hệ thống chính trị; đồng thời là cơ quan chuyên môn nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên của Trung ương”. Tại các quốc gia CS, không một sinh hoạt xã hội nào thoát khỏi sự kiểm soát của hai cơ quan nêu trên.

Để tẩy não một dân tộc đảng CS thay đổi mọi giá trị và nền tảng văn hóa, lịch sử và truyền thống dân tộc, nói chung phải xây dựng những con người tuân phục và đất nước tuân phục. Bộ máy tuyên truyền CS nặn ra nhiều khái niệm chưa từng có trước đó “con người mới”, “xã hội mới”, “văn hóa mới”, “anh hùng lao động”, “lãnh tụ kính yêu”. Cái gì cũng mới nhưng thực chất đều là giả tạo. Tại các quốc gia Đông Âu ngày nay, các “anh hùng” do các đảng CS dựng lên bị khám phá là sản phẩm tuyên truyền và bị xóa bỏ. Đảng không chỉ có khả năng thay đổi hiện tại, vẽ ra một tương lai nhưng còn có khả năng thay đổi cả quá khứ của cả dân tộc. Lịch sử một dân tộc được viết bằng sử quan của đảng CS và được giải thích phù hợp với đường lối, chính sách của đảng CS trong từng thời kỳ chứ không phải là những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ thăng trầm, vinh quang và thống khổ của dân tộc. Bộ máy tuyên truyền CS chi phối không chỉ trong các sinh hoạt nhân văn, xã hội mà cả khoa học tự nhiên như trường hợp lý thuyết kế thừa giống lúa của Trofim Lysenko trong sản xuất lúa tại Liên Xô những năm 1930, tuy không làm sản lượng lúa tăng được bao nhiêu nhưng đảng đánh bóng y thành một thiên tài.

Có người cho rằng chế độ CS thực chất là chế độ phong kiến hiện đại nhưng so sánh đó không hoàn toàn đúng, ít ra về mặt danh xưng. Khác với các triều đại phong kiến, các vị trí xã hội dưới chế độ CS thường được đặt ngược. Những kẻ ăn trên ngồi tróc, thực sự làm chủ đất nước, nắm trong tay quyền sinh sát cả dân tộc lại được gọi là “đầy tớ nhân dân” trong lúc những tầng lớp cùng đinh trong xã hội, sống không một túp lều tranh để ở và chết không một chiếc chiếu để bó xác lại bị gán cho một danh xưng rất đẹp “chủ nhân của đất nước”.

Đặc tính văn hóa của mỗi quốc gia cũng làm cho chính sách tẩy não thực hiện tại châu Âu và châu Á khác nhau chút ít. Châu Âu như Liên Xô và các nước CS Đông Âu đặt nặng yếu tố vật chất, thể xác trong lúc Trung Cộng, Việt Nam yếu tố tư tưởng, tinh thần được chú trọng nhiều hơn. Một đối tượng tẩy não bị bắt tại Liên Xô sẽ bị hành hạ thể xác cho đến khi thú nhận những tội ác dù không làm, thừa nhận là sự thật dù biết đó là giả dối trong lúc tại Trung Cộng và CSVN đối tượng đó sẽ bị “cải tạo tư tưởng” cho đến khi gục quỵ xuống mới thôi.

Tẩy não một quốc gia thù địch

Kiểm soát tạm thời hành vi và ý chí của một cá nhân có thể chỉ cần một thời gian ngắn như trường hợp các tù binh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên nhưng kế hoạch của Liên Xô nhằm tẩy não nước Mỹ cần nhiều chục năm. Tại sao phải cần đến vài chục năm, theo Yuri Bezmenov cựu nhân viên KGB đào thoát và được định cư tại Canada năm 1970, giải thích đó là thời gian cần có để xây dựng một thế hệ con người trung thành với lý tưởng CS ngay tại Mỹ.

Yuri Alexandrovich Bezmenov là một cựu nhân viên KGB hoạt động tại Ấn Độ trong thập niên 1960. Cha của ông là một lãnh đạo cao cấp của tổ chức KGB. Năm 17 tuổi ông theo học ngành ngôn ngữ học tại đại học Moscow State University do KGB trực tiếp kiểm soát. Nhiệm sở đầu tiên sau khi tốt nghiệp của Yuri Bezmenov là Ấn Độ với trách nhiệm thực thi các chính sách nhằm lật đổ chế độ dân chủ Ấn. Tuy nhiên, sự thán phục của ông dành cho nền văn hóa Ấn và sự bất mãn chế độ Cộng Sản mỗi ngày một gia tăng đã thúc đẩy Yuri Bezmenov đào thoát khỏi ý thức hệ CS.

Năm 1985, trong một buổi phỏng vấn đặc biệt với chủ đề “Làm thế nào để tẩy não một quốc gia”, Yuri Alexandrovich Bezmenov giải thích chiến lược của Liên Xô để thay đổi tư duy của một quốc gia đối nghịch, trường hợp này là Mỹ.

Không giống như các phim ảnh do Hollywood dàn dựng với những màn gián điệp gay cấn, hấp dẫn kiểu James Bond, tẩy não nước Mỹ là một tiến trình được thực hiện từng bước, rất nhẹ nhàng, diễn ra trước mắt và trải qua bốn giai đoạn gồm (1) lũng đoạn nền tảng đạo đức, (2) tạo sự bất ổn, (3) gây khủng hoảng và (4) bình thường hóa. Trong bốn giai đoạn, hủy hoại nền tảng đạo đức của một quốc gia là giai đoạn quan trọng nhất.

Mặc dù mục đích của buổi phỏng vấn nhằm giải thích cuộc chiến tranh văn hóa tư tưởng mà Liên Xô dùng để đánh gục nước Mỹ, tẩy não cũng là chính sách chung mà lãnh đạo các đảng CS trên toàn thế giới áp dụng.

Mỹ chẳng những không bị đánh gục mà trái lại đã góp phần quan trọng trong việc hạ gục toàn bộ hệ thống Liên Xô. Tuy nhiên, phía thế giới tự do, trong thời kỳ chiến tranh lạnh cũng tổn thất khá nặng với Cuba (1959), Congo (1970), Ethiopia (1974), Cambodia (1975), Việt Nam Cộng Hòa (1975), Lào (1975), Angola (1975), Mozambique, (1979), Nicaragua (1979) bị rơi vào quỹ đạo CS.

Tạm gát qua bên cuộc chiến bằng súng đạn, trong bốn giai đoạn mà Yuri Alexandrovich Bezmenov phân tích, giai đoạn thứ nhất, đầu độc một quốc gia, đáng được phân tích để thấy cuộc chiến tranh văn hóa tư tưởng do CSVN phát động đã ảnh hưởng thế nào đến sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Trong buổi phỏng vấn Yuri Alexandrovich Bezmenov cũng nhắc đến Việt Nam và tiết lộ các chính sách do CSVN thực hiện chẳng phải là sản phẩm riêng gì của đảng CSVN nhưng hoàn toàn rập theo khuôn mẫu của Liên Xô. Do đó, phần còn lại của bài sẽ thay VNCH vào chỗ Mỹ.

Để hủy diệt nền tảng đạo đức văn hóa của VNCH, trước hết phải đầu độc thành phần trí thức. Giới lãnh đạo CSVN đã tiến hành một chính sách quy mô nhằm mua chuộc, lũng đoạn, phân hóa hàng ngũ trí thức miền Nam Việt Nam.

Nhiều người hiểu lầm rằng đối tượng của chính sách tuyên truyền CS áp dụng vào các thành phần ít học, dễ tin, đói khát, cùng khổ, hay “không có gì để mất” nói theo quan điểm Marx. Không phải. Mục tiêu hàng đầu của đảng CS là thu hút thành phần có lý tưởng, có học thức như nhà báo, nhà xuất bản sách, nhà giáo dục, văn nghệ sĩ, nói chung là những thành phần có khả năng hướng dẫn dư luận. Hàng khối trí thức miền Nam đã bị CS tuyên tuyền, đầu độc và trở thành những công cụ của CS trong thời chiến, khi VNCH gục xuống trong máu và nước mắt, và mãi cho đến ngày nay. Những thành phần thân Cộng này không nhất thiết phải được kết nạp vào đảng nhưng là những người biện hộ cho quan điểm của đảng CS bởi vì tiếng nói của họ được xem “khách quan”, “độc lập”. Những trí thức và chính khách này tự nhận là “thành phần thứ ba” như được gọi trong sinh hoạt chính trị tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Thực tế chính trị đã chứng minh, không có quan điểm nào gọi là “độc lập” hay “khách quan” và tại miền nam Việt Nam trước đây cũng không có thành phần nào đúng nghĩa là thành phần chính trị thứ ba, ngoài hai lập trường chính trị quốc gia và cộng sản.

Cuộc chiến VN sau hiệp định Geneve là cuộc chiến giữa tự do và độc tài,  giữa quốc gia và CS. “Ba thành phần” là cách viết cho hợp tình để rút  lui của Mỹ trong hiệp định Paris. Những người trong “Thành phần thứ ba”   đều nằm  trong sự kiểm soát của đảng CS và hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp  của đảng chứ chẳng “độc lập”, “khách quan” gì cả, như đã chứng minh sau  1975 khi họ hợp tác một cách tích cực và nhận các chức vụ dù hữu danh vô  thực của chế độ. Một số hiện nay tuy bất mãn nhưng vẫn hãnh diện với  chức vụ bắt đầu với chữ “cựu” và “nguyên” đó. Trước 1975, có nhiều lãnh  tụ đảng phái quốc gia đối lập (Đại Việt, VNQDĐ …) và nhiều chính khách  đối lập (Gs Trần Văn Tuyên, Gs Nguyễn Ngọc Huy …) nhưng họ vẫn là chính  khách quốc gia và nhiều trong số họ đã chết trong tù. Chống chính quyền,  chống tham nhũng tại miền Nam trước 1975 khác với hoạt động cho CS.  Trong bài “Những người đi tìm tổ quốc” trên talawas trước đây tôi có  viết về sự khác nhau này: “Các anh có quyền biểu tình, có quyền chống  độc tài, chống tham nhũng, chống độc diễn nhưng khi bỏ đi sang hàng ngũ  của những người ném lựu đạn vào quán ăn, pháo kích vào trường học, đặt  mìn trên quốc lộ, các anh đã phản bội quyền sống trong hoà bình của nhân  dân miền Nam. Giống như những đứa con lớn lên trong một gia đình nghèo,  có bà mẹ bịnh tật, có người cha say rượu hay đánh đập con cái và còn  một bầy em nhỏ dại. Thay vì khuyên răn người cha, săn sóc người mẹ, che  chở cho đám em khờ, các anh lại bỏ đi, và chẳng những đã bỏ đi mà còn  dắt kẻ gian về đốt phá nhà mình.”

Alexandrovich Bezmenov cũng giải thích xa hơn, thành phần thân Cộng chỉ cần thiết trong giai đoạn làm sụp đổ quốc gia thù địch nhưng khi mục đích của đảng CS đã đạt, thành phần này chẳng những không còn cần thiết mà có thể trở thành một chướng ngại. Nhiều trong số họ phải bị giết, bị tù và bị thanh trừng qua nhiều hình thức. Lý do? Những kẻ thân Cộng trong chiến tranh rất dễ bị bất mãn khi thấy đảng CS nắm hết quyền hành và do đó sẽ trở thành thù địch về mặt quyền lực với chế độ và chống đối về mặt tư tưởng với chủ nghĩa Marx Lenin. Họ bị thanh trừng, ngoài ra, còn vì cái tội biết CS quá nhiều. Yuri Alexandrovich Bezmenov nêu lên trường hợp Nicaragua nơi một phe thân CS trước đó đã hoạt động chống lại tổ chức CS Sandinistas do José Daniel Ortega lãnh đạo. Tại Afghanistan nơi lãnh tụ CS Taraki bị Amin giết, rồi Amin bị Karmal giết, và tại Bangladesh nơi Mujibur Rahman bị chính những người cùng chiến tuyến với y giết.

Để chiến thắng trong trận chiến quân sự và văn hóa, ngoài khối thân CS nêu trên, đảng CS cần một mạng lưới nằm vùng trung thành, dã man, cuồng tín và hữu hiệu. Thành phần này cần thiết để trực tiếp thi hành các chính sách của đảng CS tại các địa phương.

Yuri Alexandrovich Bezmenov nhấn mạnh đến thành phần nằm vùng bởi vì không có mạng lưới nội ứng tại địa phương các lực lượng CS bên ngoài không thể xâm nhập được. Trong buổi phỏng vấn, cựu nhân viên KGB này có nhắc đến trường hợp một thành phố ở Việt Nam, được viết trong văn bản là Hua, có thể ông muốn nói Huế, để nhấn mạnh đến vai trò của mạng lưới CS nằm vùng: “Tương tự, trong một quận của Huế tại Nam Việt Nam, nhiều ngàn người đã bị xử tử trong một đêm khi thành phố bị CS chiếm chỉ trong hai ngày; CIA không thể nào trả lời được câu hỏi, làm thế nào CS có khả năng biết từng cá nhân người bị xử tử, ông ta sống ở đâu, đến nơi nào để bắt ông và để bắt trước bình minh, bỏ ông ta lên xe, lái ra khỏi thành phố và bắn ông ta. Câu trả lời rất đơn giản. Thật lâu trước khi chiếm thành phố đã có một mạng lưới của những CS nằm vùng; họ là dân địa phương và là những người biết một cách tuyệt đối những ai trong thành phố có ảnh hưởng với quần chúng, kể cả những anh thợ hớt tóc và tài xế taxi. Những ai có cảm tình với Mỹ đều bị xử bắn.”

Thước đo của mức độ bị tẩy não

Mức độ bị tẩy não cũng có mức trầm trọng khác nhau. Một người bị tẩy não hoàn toàn sẽ không còn khả năng để đánh giá sự thật. Sự kiện và bằng chứng không có nghĩa gì với họ. Yuri Alexandrovich Bezmenov phát biểu từ kinh nghiệm ở Liên Xô “Ngay cả mang anh ta tới tận Liên Xô và chỉ cho anh ta thấy trại tập trung, anh ta cũng không tin… cho đến lúc anh ta bị đá ngay vào đít, khi giày đinh đạp lên anh, rồi anh ta mới hiểu. Nhưng không phải trước đó. Đó là thảm kịch của trình trạng bị băng hoại về đạo đức trong con người.” Nhiều người Việt Nam hiện nay vẫn chịu đựng mức độ tẩy não trầm trọng như vậy.

Tuy nhiên, cũng có những người bị tẩy não ở mức độ thấp hơn. Họ thấy được những hiện tượng sai trái, những bất công, tiêu cực của chế độ nhưng vẫn “chấp nhận đặc ân để sau đó tuân hành”, vẫn cho rằng “chống lại chỉ là hành động vô ích”, vẫn “trải qua nhiều chục năm tuân phục thành một thói quen”, và vẫn nghĩ rằng “phản kháng chỉ làm thiệt hại cho lòng tự trọng hơn là việc đầu hàng có điều kiện” đúng như các điểm mà nhà xã hội học Albert D. Biderman đã liệt kê. Điều đó cho thấy, trên thế giới, chủ nghĩa CS chỉ là một bóng ma hãi hùng của quá khứ, các dân tộc từng bị CS cai trị từ Âu sang Á đã thức tỉnh sau bảy mươi năm chịu đựng chủ nghĩa tàn bạo nhất lịch sử loài người nhưng tại Việt Nam vẫn còn nhiều người bị tẩy não. Giống như đảng CS không bao giờ thừa nhận đã và đang tẩy não cả dân tộc, không ai muốn thừa nhận mình bị CS tẩy não.

Thước đo mức độ tẩy não không phải là quá khó để xác định mà nằm ngay trong câu trả lời cho câu hỏi rất đơn giản “Anh (chị) thật sự muốn gì cho đất nước?”

Con đường duy nhất hiện nay là tập trung sức mạnh dân tộc, gạt bỏ mọi bất đồng, vận dụng các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam đến thành công, xóa bỏ chế độ độc tài toàn trị CS, thiết lập một chế độ dân chủ pháp trị, hiện đại hóa đất nước toàn diện làm nền tảng cho việc phục hồi chủ quyền đất nước, mở đường cho một Việt Nam thăng tiến lâu dài.

Không có con đường nào khác. Tuy nhiên, không phải ai cũng có một câu trả lời dứt khoát và giống nhau như thế. Ngay cả trong tầng lớp có học thức, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo không ít người vẫn còn nghĩ rằng nói gì thì nói đảng CS trong suốt dòng lịch sử của đảng đã đồng hành với dân tộc, nói gì thì nói chỉ có đảng CS mới có khả năng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, nói gì thì nói đảng CS là đảng nắm trong tay ngọn cờ chính nghĩa, nói gì thì nói Việt Nam vẫn cần ổn định để phát triển và mọi thay đổi đột biến sẽ dẫn đến hỗn loạn, nói gì thì nói các lãnh tụ CS vẫn là những người yêu nước, những anh hùng dân tộc và xứng đáng được kính trọng khi họ sống và tôn thờ, tiếc thương, than khóc khi họ chết.

Lịch sử thế giới chỉ riêng từ thế chiến thứ hai cho đến nay có nhiều anh hùng đã đóng góp trí tuệ hay máu xương vào công cuộc bảo vệ tự do cho đất nước họ hay giải phóng dân tộc họ khỏi ách thực dân. Vài trường hợp điển hình như Mahatma Gandhi (Ấn Độ), Winston Churchill (Anh), Charles de Gaulle (Pháp), Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân Quốc), Franklin D. Roosevelt (Mỹ). Nhưng khi họ chết, ngoài tang quyến, không có cảnh “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” như khi Hồ Chí Minh chết và “ôm thật chặt cột nhà khóc cho thỏa nỗi xót thương”như khi Võ Nguyên Giáp vừa chết ở Việt Nam. Bởi vì những lãnh đạo thế giới nêu trên là những anh hùng thật, con người thật, có thành công và thất bại, có điểm tốt và điểm xấu và cuộc đời họ được phô bày trước dư luận chứ không phải là sản phẩm do nhà máy tuyên truyền sản xuất trong một xã hội bị bưng bít thông tin. Tuy mức độ có khác nhau, “khóc lãnh tụ” là đặc điểm của văn hóa CS và chỉ tồn tại tại các nước CS.

Trở lại với thành phần “nói gì thì nói”. Giới hạn trong hoạt động tri thức của thành phần “nói gì thì nói” mỗi thời kỳ có thể được nới rộng hơn chút ít nhưng đó không phải là sự mở rộng thuận theo đà phát triển của văn minh nhân loại mà từ sự thỏa hiệp với đảng CS. Như kẻ viết bài nàycó lần đã viết, xã hội Việt Nam là một xã hội được khoanh vùng có biên giới rõ rệt giữa các thành phần và các thành phần này cùng tồn tại bằng cách thỏa hiệp với nhau. Không được vượt đèn đỏ, không được lấn lề, vi phạm sẽ bị phạt. Đảng Cộng sản thỏa hiệp với các thành phần trí thức vì mục đích duy trì quyền cai trị đất nước. Giới trí thức thỏa hiệp với đảng để được ban phát bổng lộc, lợi danh. Giới văn nghệ sĩ thỏa hiệp với đảng để các điều kiện sáng tác, in ấn, phát hành được nới rộng hơn, được đi Tây, đi Mỹ dễ dàng. Các bè phái tham ô thỏa hiệp với lãnh đạo đảng để được tiếp tục tham nhũng cho đến khi bị lộ. Chỉ có những người cùng khổ, thấp cổ bé miệng nhưng chiếm đa số trong xã hội, là không ai cần thỏa hiệp mà họ cũng chẳng biết thỏa hiệp với ai ngoài số phận hẩm hiu đầy bất hạnh của mình.

Không có gì đáng hãnh diện. Hồ nước rộng mà thành phần “nói gì thì nói” đang bơi trong đó hôm nay hai chục năm trước là một chiếc ao nhỏ và bốn mươi năm trước là một lỗ chân trâu nhưng dù là lỗ chân trâu, ao hay hồ cũng chỉ là nơi tích tụ của những giọt nước tuyên truyền cùng một nguồn nhỏ xuống suốt hơn nửa thế kỷ qua. Dù thừa nhận hay không, tầng lớp của những người “nói gì thì nói” chính là những người bị CS tẩy não, và Việt Nam hôm nay vẫn còn chịu đựng dưới chế độ độc tài trong khi đại đa số nhân loại sống trong tự do dân chủ không phải vì tài năng của giới lãnh đạo CS nhưng chỉ vì số người bị tẩy não còn quá đông.

 

Trần Trung Đạo

_____________________________________

Tham khảo:

– Albert D. Biderman, Herbert Zimmer, Manipulation of Human Behavior (The), Delhaye, 1961

– Kathleen Taylor, Brainwashing THE SCIENCE OF THOUGHT CONTROL, Oxford University Press 2004

– Transcript of G. Edward Griffin interviews Ex-KGB Soviet Defector Yuri Bezmenov, Wed Jun 3 1985

– EDWARD HUNTER, Brainwashing, The Story of Men Who Defied It, New York, 1956

– Louis R. Stockstill, The Forgotten Americans of the Vietnam War, Prisoners of War—A Special Report, US Air force

– Biderman’s Chart of Coercion

– http://vi.wikipedia.org về Ban Tuyên Giáo Trung Ương và Ban Tổ chức Trung Ương đảng CSVN

– Former KGB Agent Yuri Bezmenov Explains How to brainwash a nation

– Archie Brown, The Rise and Fall of Communism, HarperCollins, New York, NY 2011

FB Trần Trung Đạo