vietsoul21

Posts Tagged ‘DÂN CHỦ’

Trần Trung Đạo – Để thắng được Trung Cộng

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Tạp văn on 2014/05/19 at 12:10

Câu nói “Không có đế quốc nào tồn tại mãi mãi” thoạt nghe rất bình thường và hiển nhiên vì lẽ đơn giản trên đời này không có gì tồn tại mãi mãi, tuy nhiên quy luật đó đã được chứng minh rất nhiều lần trong lịch sử bằng bao máu xương của nhân loại. Một đế quốc vừa hình thành ở Á Châu và đang đe dọa cho hòa bình thế giới: Đế quốc Trung Cộng. Đế quốc này sẽ tồn tại thêm được bao lâu và sẽ sụp đổ bằng cách nào vẫn còn là chủ đề được các nhà phân tích chính trị, các sử gia bàn cãi không chỉ trên bên ngoài Trung Cộng mà ngay tại đầu não của cơ chế độc tài.

Trung Cộng tồn tại được bao lâu? 

Trên cả nước Trung Cộng có một nơi duy nhất được quyền phê bình đảng CS và một nhóm người rất nhỏ trong số hơn một tỉ dân được trao đặc quyền tự do tranh luận về ngày tàn của đảng CS mà không sợ trả thù, nơi đó là Trường Đảng Trung Ương trực thuộc Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSTQ và nhóm người đó là những cán bộ lý luận cao cấp của trường. Trong một biệt điện hoàng gia cũ ở phía tây Bắc Kinh được đổi thành Trường Đảng, một số nhỏ chuyên gia ưu tú nhất của trường dành trọn thời gian chỉ để làm một việc là phân tích mọi sai lầm của lãnh đạo đảng, mọi chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn của đảng, mọi kế hoạch kinh tế, các chính sách đối nội và đối ngoại của đảng. Và câu hỏi chính được đặt ra cho nhóm người có đặc quyền này “Đảng CS sẽ tồn tại bao lâu và những khả năng nào xảy ra sau khi đảng sụp đổ”. Dĩ nhiên mục đích tranh luận không phải để lật đổ chế độ mà nhằm tìm các biện pháp thích nghi ngăn chận kịp thời mọi sai lầm, sơ sót để cỗ máy độc tài khỏi rơi xuống hố như trường hợp Liên Xô.

Hiện nay tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về tương lai Trung Cộng. Một quan điểm của đảng CSTQ cho rằng Trung Cộng là một nước có biệt lệ về văn hóa chính trị nên làn sóng cách mạng dân chủ tại châu Âu trước đây cũng như Bắc Phi vừa qua không đập vào bờ Trung Cộng. Một quan điểm khác gồm những học giả chuyên về Trung Cộng, trí thức Trung Quốc có ảnh hưởng và ngay cả một số viên chức CS cao cấp có khuynh hướng tự do cho rằng đảng CS phải chết nhưng vấn đề là chết bằng cách nào mà thôi. Điều đó cũng cho thấy, nỗi lo sợ một ngày cơ chế độc tài CSTQ sẽ sụp đổ ám ảnh thường xuyên trong suy nghĩ của lãnh đạo CSTQ và hai yếu tố lớn nhất dẫn đến sự sụp đổ của Trung Cộng vẫn là chính trị và kinh tế.

Về chính trị. Bài học Thiên An Môn cho lãnh đạo Trung Cộng biết nguy cơ hàng đầu vẫn là khát vọng tự do của con người. Dân chủ là hướng đi của thời đại. Năm 1900 mở đầu cho thế kỷ 20 trên thế giới chỉ có 12 phần trăm nhân loại sống trong các cơ chế chính trị được gọi là dân chủ. Đầu thế kỷ 21, 120 trong số 192 quốc gia được quốc tế công nhận là những nước được lãnh đạo bởi các chính phủ do dân bầu. Nhiều lãnh đạo CSTQ đổ lỗi sự sụp đổ của Liên Xô lên đầu Mikhail Gorbachev như Giáo sư Shen Zhihua, chuyên viên về Liên Xô của đại học Đông Hoa và cả cựu Chủ Tịch Trung Cộng Giang Trạch Dân từng phát biểu “Gorbachev phản bội cách mạng”. Tuy nhiên họ cố tình không quan sát đến tiến trình chuyển hóa không ngừng của xã hội con người.

Giáo sư Archie Brown thuộc đại học Oxford, Anh quốc, trong tác phẩm Sự vươn lên và sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản (The Rise And Fall Of Communism) nêu ra 8 lý do khiến chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, trong đó lý do hàng đầu không phải là kinh tế hay quân sự mà là sự thay đổi xã hội. Sự chuyển hóa tri thức nhanh hay chậm tùy theo điều kiện mỗi nước nhưng là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào. Những nguồn đối kháng từ bên trong các nước CS đã âm thầm lớn mạnh chỉ chờ cơ hội là bùng vở như được chứng minh qua việc 300 ngàn thanh niên Đông Đức tham dự buổi nhạc hội của Bruce Springsteen vào ngày 19 tháng Bảy 1988 và hàng ngàn thanh niên Đông Đức hô to khẩu hiệu tự do muôn năm trên bờ tường Bá Linh tối ngày 9 tháng 11 năm 1989. Sức sống của đất nước cũng như của xã hội là một dòng chảy không bao giờ ngừng nghỉ, các thế lực cầm quyền độc tài chỉ là những khe đá, có thể làm chậm dòng thác văn minh nhưng không thể ngào ngăn chận được. Tóm lai, yếu tố chính tác động vào sự sụp đổ của Liên Xô, hệ thống CS tại châu Âu và sẽ diễn ra tại Trung Cộng cũng như Việt Nam chính là nội lực phát xuất từ xã hội, kết quả của các phong trào xã hội và sự chuyển hóa không ngừng của xã hội.

Về mặt kinh tế xã hội. Như lịch sử đã chứng minh sự phát triển của giai cấp trung lưu là nguồn thúc đẩy của cách mạnh dân chủ vì đó là giai cấp có học thức, có phương tiện và có nhiều nhu cầu vật chất cũng như tinh thần cần được thỏa mãn. Cách đây 20 năm, giai cấp trung lưu này không tồn tại nhưng nay là một lực lượng đông đảo và phát triển theo lũy thừa. Thành phần trung lưu chiếm 14 phần trăm dân số thành thị tại Trung Cộng và có lợi tức bình quân từ 17 ngàn đô la đến 37 ngàn đô la. Với hướng phát triển xã hội có tính quy luật đó, theo giáo sư David Shambaugh, giám đốc Chương trình Chính sách Trung Quốc thuộc đại học George Washington sự suy thoái của đảng CSTQ đang diễn ra sẽ giống như các triều đại Trung Hoa trước đây, chiếm đoạt, hưng thịnh và sụp đổ.

Trong một tổng kết mới đây The World Bank’s International Comparison Program cho rằng Trung Cộng với GDP 2011 là 13.5 ngàn tỉ đô la, sẽ qua mặt Mỹ nhanh hơn dự đoán. Thống kê này dựa trên việc so sánh sức mua tương đương (purchasing power parity) của hàng hóa giữa hai quốc gia. Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế không đồng ý vì không thể dùng giá cả của những ổ bánh mì, bao thuốc lá để làm thước đo cho mức độ giàu nghèo giữa hai nước trong lúc những món hàng quan trọng nhất lại không thể mua tại Trung Cộng. Tom Wright của Wall Street Journal ví dụ một cách chính xác và cụ thể, Trung Cộng không thể mua một chiếc tàu, một giàn hỏa tiển hay một chiếc xe Đức đắt tiền mà phải trả bằng một giá hối suất cao gấp nhiều lần. Nếu tính trên phạm vi cả nước, theo phân tích của Global Public Square staff, Trung Cộng không đứng nhất, nhì hay thậm chí 30 mà đứng sau cả Peru. Nhưng dù phát triển kinh tế nhanh, sự phát triển đó vẫn phải đồng hành với các phát triển chính trị, văn hóa để tạo nên một xã hội thịnh vượng hài hòa. Điều đó không tồn tại tại Trung Cộng. Các thành tựu kinh tế của Trung Cộng được đổi bằng sự chịu đựng, hy sinh, mồ hôi, xương máu của nhiều dân tộc khác và ngay tại Trung Cộng hàng trăm triệu dân thiểu số vẫn phải tiếp tục sống trong xã hội tham nhũng, độc tài, nghèo đói, bất công, bạc đãi. Hai nhà lý luận CS Lin Zhe và Chen Shu, thành viên trong nhóm nhỏ của trường đảng có đặc quyền phê phán, mặc dù tin rằng đảng CSTQ sẽ tồn tại lâu cũng thừa nhận tham nhũng kinh tế có thể làm sụp đổ đảng. Bà Lin Zhe dành 20 năm để nghiên cứu phương pháp diệt tham nhũng tại các cấp đảng vì theo bà “Tham nhũng là mối đe dọa nguy hiểm có thể dẫn đến sự sụp đổ của đảng và nhà nước”.

Ngọn núi lửa Trung Cộng

Tuyệt đại đa số con người không ai muốn chiến tranh và là người Việt Nam lại càng không muốn có chiến tranh. Tuy nhiên, chiến tranh và hòa bình không phải là chuyện muốn hay không muốn mà đó là hai mặt biện chứng nhân quả của một quá trình mang tính lập lại của phát triển xã hội loài người. Sau khi hiệp ước Versailles được ký kết, Thống chế Pháp Ferdinand Foch nhận xét “Đây không phải là hòa bình mà chỉ là cuộc đình chiến hai mươi năm”. Thế chiến thứ hai bùng nổ 20 năm và 65 ngày sau đó. Nhận xét của danh tướng Ferdinand Foch không phải là lời tiên đoán của các ông thầy bói nhưng vì các nguyên nhân kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội dẫn đến thế chiến thứ nhất chẳng những không giải quyết mà còn tác động vào nhau để tạo thành nguyên nhân cho thế chiến thứ hai đẫm máu hơn. Tương tự, Trung Cộng với chính sách cực đoan về cả đối nội lẫn đối ngoại đang là mầm mống cho một chiến tranh khốc liệt tại Á Châu.

Đảng Cách Mạng Thể Chế Mexico (Mexico’s Institutional Revolutionary Party) cầm quyền được 71 năm và chế độ độc tài CS Liên Xô tồn tại được 74 năm nhưng cả hai đều đã mất quyền lãnh đạo. Trung Cộng tồn tại đến nay được 65 năm nhưng liệu sẽ thoát ra ngoài sự chi phối của quy luật “không có đế quốc nào tồn tại mãi” hay không. Câu trả lời dĩ nhiên là không. Một khi ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán như giòng nham thạch đang cuồng cuộn sôi trong lòng núi, khả năng chuyển hóa từ độc tài sang dân chủ một cách hòa bình tại Trung Cộng là một chuyện khó xảy ra. Với các mâu thuẫn bên trong và thù địch bên ngoài vô cùng sâu sắc, không có cách mạng nhung, cách mạng da cam nào mà chỉ có máu chảy ngập đường phố Bắc Kinh, Thượng Hải và các vùng Tân Cương, Ninh Hạ, Nội Mông, Tây Tạng. Việt Nam với quan hệ hữu cơ về chính trị tư tưởng và với vị trí chiến lược trong vùng biển Đông cũng khó thoát khỏi ảnh hưởng đầy tai họa của cách mạng máu.

Giáo sư Yuan-kang Wang thuộc đại học Western Michigan viết trong tạp chí Foreign Policy “Nếu quyền lực tiếp tục gia tăng, Trung Quốc sẽ mở rộng ảnh hưởng đến vùng Đông Á. Chính sách này sẽ không tránh khỏi tạo nên sự cạnh tranh an ninh với Mỹ trong khu vực và các vùng chung quanh. Washington đang bước ra khỏi mối bận tâm Iraq và Afghanistan và đang là ‘mấu chốt’ hướng tới Á Châu. Như người Trung Quốc thường nói “Một núi không thể có hai cọp”, nhớ ráng hết sức mình, trò chơi còn tiếp tục”. Ngọn núi lửa Trung Cộng sẽ phun tuy chưa biết chính xác ngày nào.

Bài học cho Việt Nam

Lịch sử để lại nhiều bài học về chính sách đối ngoại khôn ngoan, nhưng đáng học nhất vẫn là bài học về cách giải quyết xung đột giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Liên Xô.

Từ khi thành lập nền cộng hòa Thổ năm 1923, Thổ Nhĩ Kỳ là một nước cô đơn. Chiến tranh với Anh vừa chấm dứt bằng chiến thắng nhưng bị các quốc gia dân chủ Tây Phương cô lập. Quân đội không nhỏ nhưng chỉ được trang bị võ khí còn lại từ thời đế quốc Ottoman và thế chiến thứ nhất. Để được an toàn, chính phủ Thổ kết thân với một anh láng giềng bên kia Hắc Hải cũng đang bị cô lập, đó là Liên Xô. Cuối thập niên 1930, khi Đức Quốc Xã trở thành mối đe dọa, Stalin quyết định phải kiểm soát Eo Biển Thổ Nhĩ Kỳ để ngăn chận các chiến hạm các quốc gia không thuộc vùng Hắc Hải di chuyển qua đó và đề nghị Thổ cùng phối hợp để làm việc này. Thổ từ chối sang nhượng chủ quyền Eo Biển. Stalin khó chịu nhưng vẫn phải tiếp tục duy trì quan hệ hữu nghị với Thổ. Khi Thổ nhích gần tới Anh và Pháp qua việc tham gia Balkan Pact 1934 và Saadabad Pact 1937 do khối Tây Phương chủ trương, Liên Xô công khai bày tỏ quan điểm gọi là “khó hiểu khi Thổ lại thương thảo với những kẻ cựu thù”. 

Trước tham vọng xâm lược ngày càng lộ liễu của Liên Xô, Thổ Nhĩ Kỳ chỉ còn một con đường duy nhất là đứng hẳn về phía Tây Phương. Tuy nhiên, muốn thân các quốc gia dân chủ Tây Phương, trước hết giới lãnh đạo Thổ phải tiến hành các cải tổ chính trị. Tổng thống Mustafa İsmet Inonu, người tiếp tục chính sách của cố tổng thống Mustafa Kemal Ataturk mở rộng chính phủ theo hình thức đa đảng. Mỹ đánh giá thiện chí của Thổ qua các cải cách chính trị và cũng thấy cần phải tích cực ngăn chận ảnh hưởng Liên Xô trên vùng Hắc Hải, đã gởi chiến hạm lừng danh USS Missouri đến Istanbul vào tháng Tư 1946. Thiết giáp hạm USS Missouri là niềm kiêu hãnh của hải quân Mỹ, từng tham dự hai trận Iwo Jima và Okinawa, và cũng là nơi Mỹ nhận sự đầu hàng của Nhật. Anh theo bước Mỹ, cùng tham gia cuộc diễn tập quân sự trong vùng biển Aegean tháng Chín 1946. Báo chí Liên Xô lên án Mỹ, Anh và cho rằng hai nước này đang thiết lập căn cứ quân sự trong vùng Eo Biển Thổ Nhĩ Kỳ. Mỹ không thừa nhận nhưng cả thế giới lúc đó đều biết Mỹ quyết tâm bảo vệ Thổ Nhĩ Kỳ. Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ từ một nước tách ra khỏi một đế quốc tan rã, giành độc lập bằng xương máu chống lại khối dân chủ Tây Phương, bị cô lập, trung lập trong thế chiến thứ hai nhưng đã khôn khéo từng bước xích lại gần với những kẻ cựu thù và cuối cùng được trở thành hội viên của NATO. Để biết ơn và xiển dương các giá trị dân chủ, mỗi năm chính phủ Thổ dành một ngân sách lớn để viện trợ cho các đề án nhằm cải cách dân chủ khắp thế giới. Năm 2012, Thổ Nhĩ Kỳ viện trợ 3.4 tỉ đô la cho 121 quốc gia. Thổ cũng dành riêng 1 tỉ đô la trong ngân sách để viện trợ nhân đạo và được xếp vào hàng thứ tư trên thế giới chỉ sau Mỹ, Cộng đồng Châu Âu và Anh Quốc.

Để thắng được Trung Cộng 

Qua xung đột giữa Liên Xô và Thổ Nhĩ Kỳ chúng ta có thể rút ra bốn điều kiện để thoát ra khỏi sự khống chế và sẽ thắng được Trung Cộng trong trận cuối cùng:

Việt Nam phải có dân chủ trước Trung Cộng. Phần đông các nhà phân tích chính trị Việt Nam đồng ý rằng Việt Nam phải có dân chủ mới bảo vệ được đất nước. Điều đó đúng nhưng cần phải nói thêm, dân chủ không chỉ giúp bảo vệ đất nước mà còn để thắng được Trung Cộng. Ngoài ra, dân chủ phải đến sớm, đừng đợi đến khi chiến tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến. Chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ mới thật sự tập trung được sức mạnh tổng hợp của dân tộc và là nền tảng cho một quốc gia dân chủ thịnh vượng lâu dài. Trung Cộng không sợ USS George Washington hay bom nguyên tử mà sợ dân chủ và rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Vũ khí dân chủ sẽ gây một phản ứng dây chuyền dẫn tới sự tan vỡ toàn bộ cơ chế CS. Một Trung Cộng mênh mông có nguy cơ tan thành nhiều mảnh, chủ quyền ngay tại lục địa còn không giữ được nói chi là chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa, Trường Sa xa xôi.

Đoàn kết dân tộc. Dân chủ là điều kiện tiền đề trong chính sách đối ngoại nhằm tạo sự tin cậy nơi các nước dân chủ Tây Phương nhưng quan trọng nhất là nền tảng của đoàn kết dân tộc. Một dân tộc chia rẽ không thắng được ai. Đây là thời điểm để xác định lại lòng yêu nước. Yêu nước ngày nay không phải là phó sản của chủ nghĩa dân tộc cực đoan hay bùa mê CS mà gắn liền với với quyền lợi sống còn của đất nước và hướng đi dân chủ nhân bản của thời đại. Trong cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Iraq, nhiều người nghĩ kẻ có lợi nhiều nhất sẽ là dân tộc Kurds. Nhưng không, họ là những người chịu đựng thiệt thòi nhiều nhất. Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, Saddam Hussein tàn sát không thương tiếc các cuộc nổi dậy của nhân dân Kurds ly khai trước sự làm ngơ của Mỹ. Nhiều nhà phân tích cho rằng Mỹ phản bội lý tưởng độc lập của nhân dân Kurds. Điều đó chỉ đúng một nửa. Nửa còn lại là sự phân liệt vô cùng trầm trọng trong tập thể 35 triệu Kurds sống trong nhiều quốc gia vùng Tây Á. Một dân tộc chia rẽ, cấu xé nhau, không có một hướng đi chung, không thể vận dụng được sự ủng hộ từ quốc tế và cũng không xứng đáng để được quốc tế ủng hộ. Tương tự, Mỹ bỏ 900 tỉ đô la hay 3 ngàn tỉ đô la tùy theo cách tính và 4486 nhân mạng để lật đổ Sadam Hussein, không phải chỉ nhằm đem lại hòa bình dân chủ cho nhân dân Iraq. Tuy nhiên, nếu là một dân tộc khôn ngoan, đây là cơ hội giúp Iraq vượt qua những khó khăn trong vài năm nữa trở thành một cường quốc trong thế giới Ả Rập và nếu họ không làm được thì cũng đừng đỗ thừa cho Mỹ, đổi tội cho Saddam Hussein mà phải trách ở chính mình.

3. Chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia. Việt Nam chỉ trở thành một vị trí chiến lược sau khi Trung Cộng thôn tính toàn lục địa Trung Hoa 1949 nhưng trước đó thì không. Tương tự, Ai Cập trước 1976 không quan trọng hơn Thổ Nhĩ Kỳ hay Iran nhưng sau khi Tổng thống Anwar Sadat bỏ đồng minh Liên Xô để bước sang phía thế giới tự do, Ai Cập trở nên một đồng minh chiến lược của Mỹ ở Trung Đông và được viện trợ ít nhất 1.5 tỉ đô la hàng năm từ đó đến nay. Vì lợi ích kinh tế cũng như về các giá trị nhân quyền, Mỹ mong muốn được thấy Trung Cộng trở thành một quốc gia dân chủ trong một châu Á và Thái Bình Dương ổn định. Trung Cộng là nhà băng của nhiều quốc gia trên thế giới kể cả Mỹ, nhưng không giống như các công ty tài chánh Lehman Brothers hay Merrill Lynch, khủng hoảng chính trị tại Trung Cộng sẽ gây tác hại vô cùng trầm trọng đối với nên kinh tế thế giới không thể đo lường được. Biết chủ động chiến lược hóa, quốc tế hóa, quan trọng hóa vị trí của quốc gia cũng như biết khai thác mối lo của cường quốc sẽ làm cho vị trí của quốc gia quan trọng hơn trong tranh chấp quốc tế. Trái lại, chủ trương của lãnh đạo CSVN “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia” là chủ trương tự cô lập, không đúng về lý thuyết lẫn thực tế chính trị và sẽ chết tức tưởi trong cô đơn mà không được ai ngó ngàng.

4. Đoàn kết với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy: Việt Nam đang đứng trước những ngã ba, ngã năm trong bang giao quốc tế nhưng dù bao nhiêu ngã cũng chỉ có thể đi trên một con đường trong một thời điểm nhất định. Sự liên minh khôn khéo trong nhiều trường hợp giúp quốc gia tránh được chiến tranh hay có thêm thời gian để chuẩn bị chiến tranh. Giáo sư Alastair Smith thuộc đại học Washington University đã công thức hóa toán học nhiều mô thức liên minh trong lịch sử bang giao quốc tế và kết luận các quốc gia có những liên minh không đáng tin cậy sẽ dễ bị tấn công hơn là các quốc gia có sự liên minh tin cậy. Hiện nay tại Á Châu có bốn liên minh quân sự gồm ba liên minh tin cậy Mỹ-Nhật, Mỹ-Phi, Mỹ-Nam Hàn và liên minh SCO về biên giới gồm Trung Cộng, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Russia, Tajikistan và Uzbekistan. Khi chảo dầu Á châu được đun nóng hơn, nhiều liên minh quân sự mới tương tự như Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (SEATO) trong thời chiến tranh Việt Nam sẽ ra đời. Đối với Mỹ, vùng biển Đông Á là huyết mạch kinh tế lẫn an ninh của các nước đồng minh với Mỹ như Nhật Bản, Nam Hàn, Philippines, Indonesia, liên minh được với Mỹ vừa có thể thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa đất nước vừa bảo đảm an ninh.

Bốn điều kiện để thắng được Trung Cộng chỉ có thể thực hiện nếu lãnh đạo là những người thực tâm vì đất nước. Điều đó không có tại Việt Nam. Rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981 này, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Dân tộc Việt Nam lại bị đảng dắt đi vòng vòng trong ngõ cụt tối tăm như đã và đang đi suốt 39 năm qua. Do đó, chọn lựa một lối thoát, một hướng đi cho đất nước không phải là chọn lựa của lãnh đạo CSVN nhưng 90 triệu người dân Việt Nam phải can đảm đứng lên quyết định vận mạng chính mình.

FB Trần Trung Đạo

Phó Thường Dân (17) Nín thở qua cầu

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn on 2014/04/06 at 08:37

Mấy chục năm về trước, lúc còn là học sinh phó thường dân tui hay đạp xe qua eo biển ở Quy Nhơn đến trường trung học La San Bình Lợi (sau chuyển cho nhà dòng đổi tên thành trường Vi Nhân). Cái eo biển này còn được gọi là Eo Nín Thở không biết là vì eo vòng rất gắt hay là sát phi trường cuối phi đạo nên máy bay đáp lên, đáp xuống cứ như là ngay ở trên đầu.

Có người nói cái hỗn danh đó là vì khi đi ngang qua đoạn eo biển này bị ngửi mùi rác rưới do người vô trách nhiệm đổ bừa hoặc phóng uế bậy bạ nên phải nín thở. Riêng đám học trò nhứt quỉ, nhì ma này thì cho nó là Eo Nín Thở vì bao thanh niên, thiếu nữ tối tối hẹn nhau đến eo biển này ôm eo xiết chặt, xà nẹo đến nín thở luôn.

Lai Chau’s bridge collapse kills eight, injures over 30 people (Vietnamnet.vn)

Rồi, phó thường dân tui lại lan man, tào lao trớt quớt nữa rồi.

Số là mấy tuần nay phây búc rộ lên chuyện mấy em học sinh và cả cô giáo phải chui vào bao ni lông kín mít, nín thở vượt suối đến trường. Chuyện đó tưởng chừng chỉ rầm rộ lòng vòng lẩn quẩn trong cái xứ Việt Nam nhưng cắc cớ ở cái thời đại inh tờ nét này nó nhạy/nhanh quá nên tin tức vượt đại dương qua hơn nửa vòng trái đất đến cả Hoa-kỳ và Âu-châu trong tíc tắc. Mấy thằng bạn sở làm mắc dịch cười cười, khinh khỉnh cũng đưa cho phó thường dân tui coi và hỏi là mày có biết cái tin này không (Vietnam’s Bridges Are So Bad, Kids Have to Float in Plastic Bags to Get to School). Tui cười hề hề, giả lả nói cái này là độc nhất vô nhị, đương nhiên chỉ có ở Việt Nam (that’s right, only in Vietnam).

Phó thường dân tui mới bèn gúc gồ thử thì chèn đét ơi “nín thở qua cầu” nó hiện lên rầm rầm làm tui phải nín thở bởi đọc hoài hổng hết. Xưa nay tui chỉ nghĩ “nín thở qua cầu” theo nghĩa bóng chứ ai dè cái “hiện thực” (xã hội chủ nghĩa) này làm nó thịnh hành quá hổng biết nữa.

Nào là “nín thở qua cầu miền Trung”, “nín thở qua cầu trên quốc lộ 57”, “nín thở qua cầu Trà Niền”, “nín thở qua cầu cực nguy hiểm ở Nghệ An”, “nín thở qua cầu Ải”, nín thở qua “cầu ‘tử thần’ ở Hà Nội”, “cầu ‘tử thần’ ở Đô Lương”, “cầu ‘tử thần’ treo khắp nơi ở Thái Nguyên”, “Cầu Rồng Đà Nẵng phải CHÍCH xilanh”, “chuyện những chiếc cầu chưa gãy[1]  v.v…

Phó thường dân tui được biết theo kiến thức y khoa rằng thì là những ai bị thiếu ôxi quá lâu thì sẽ bị liệt não. Tui thầm nghĩ chắc nếu phải nín thở qua cầu quá lâu thì dần dà gì cũng bị bại não. Mà chắc là dzậy vì cứ nhìn những thần dân thiên đường cộng sản Bắc Triều Tiên sắp hàng khóc lóc hơn cha chết cho Ỉn[2] thì không bại não thì còn là gì?[3]

Tổng lú nhà ta đã nói con đường tiến đến XHCN còn xa nên Việt Nam chắc chưa đến cỡ đó. Nhưng nào thiếu vô số những triệu chứng tâm thần bại não thể hiện hàng ngày, nhất là trong giới nghị gật, văn nô thường xuyên đã và đang phải nín thở qua cầu.

Phải khôn hơn mọi người một tí để lén thở qua cầu mới dám tự hào “Tôi khá tự do (ở đây) ở Việt Nam. Với tôi thì (tôi biết cách), tôi hơi khôn (hơn một tí) hơn mọi người một tí để tôi biết cách làm sao cho mình có được sự tự do của mình nó trọn vẹn nhất.[4]

Quan bại não vì “nín thở qua cầu” kiếm ghế nên mới phang “Cầu sập vì người Mông đi rất nhanh … Chưa thể khẳng định do làm ẩu, hoặc thi công không đúng …[5], bao che đỡ đòn cho cánh hẩu thi công rút ruột, chắp vá để lại quả xây cất biệt thự, tư gia cho “đồng chí” phe ta, cá mè một duộc vì dù gì thì “Trưởng BQL dự án cầu treo Chu Va 6 là con rể Bí thư Tỉnh ủy.”

Chỉ tội nghiệp người dân không khôn ngoan nín thở qua cầu lần chót sau khi đã chết để bị chết chùm cả lũ “sinh mạng bọt bèo”[6]. Đám tang đưa người tắt thở qua cầu, nặng gánh nên tang gia, tang quyến, thân nhân phải thở một chút thì sập (cầu treo bản Chu Va 6 ở Lai Châu).

Chuyện “nín thở qua cầu” thiệt ra đã có từ thời nảo, thời nao chứ có mới mẻ gì mà chộn rộn, có gì mà phải lăng xăng.

Ngay từ lúc búa liềm cướp chính quyền thì nông dân đã được hợp tác xã hóa, nghe kẻng ra đồng im re “nín thở qua cầu” từ “cái đêm hôm ấy … đêm gì?[7], giới văn nghệ sĩ thì “nín thở qua cầu” theo tiếng phèng la (ban tuyên huấn) lên án cái nhóm nhân văn giai phẩm, giới thương gia thì “nín thở qua cầu” “tự nguyện hiến tặng” tài sản, của cải trong cải cách thương nghiệp. Chính quyền cách mạng ta chí ư là tình nghĩa nên cho một “phát” ân huệ[8], tắt thở, xong đời (chuyện về Bà Cát Hanh Long) để ân nhân không phải lay lắt suốt đời “nín thở qua cầu” làm kẻ bị mất phép thông công[9].

Tưởng chỉ có dân mới phải “nín thở qua cầu” để có thể sống còn trong thiên đường cộng sản. Còn cán bộ đảng và nhà nước thì sao?

Hóa ra cốt cán cũng chia sẻ nỗi trần ai này. Nhưng mà là để giành ăn. Họ cũng trầy vi, tróc vẩy nín thở qua cầu khi phân chia bổng lộc giữ/giành ghế “Giai đoạn trước thềm đại hội này là thời kỳ ‘nín thở qua cầu’. Nghĩa là nói gì cũng phải giữ, phải rào trước, đón sau, có khi có những đề xuất mới hay cả những việc chưa bằng lòng cũng phải nén xuống. Lá phiếu sắp tới mới là điều quan tâm.

Nhưng chuyện “nín thở qua cầu” đó có lẽ chỉ cho đám tép riu lẻ tẻ phải phấn đấu chứ các thái tử đảng, con ông cháu cha, con cháu các cụ thì đã cài, cắm thì cóc cần đụng tới sợi lông chân.

Ông Tề thiên của đảng đã rứt sợi lông phù phép thở (thổi) một cái là cô hồn các đảng con cháu ai nằm vào chức vị đó. Thổi một cái thì “Con trai thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng được đề bạt làm Phó bí thư tỉnh ủy Kiên Giang[10], phù một cái thì “Con trai Bí thư Lê Thanh Hải lên chức[11], phép một bài thì “chuẩn bị vai trò lãnh đạo cho thế hệ thái tử đảng[12] lên ngôi.

Phó thường dân tui quen quét lá đa nên hổng cần cà ràm làm chi. Dzậy mà phải chịu nín thở qua cầu hoài thì có ngày trở nên tửng tửng rồi gái nó chê nên hổng hạp với nó.

Sau cái ngày 30-4-75, phó thường dân tui nín thở qua cầu được vài năm ngáp ngáp thấy hổng đặng nên bỏ của chạy lấy người. Sang đến nước dân chủ tiến bộ được thở bầu không khí tự do nó thiệt là khỏere. Hổng phải kiểu “khỏe re như con bò kéo xe[13] mà người tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu mơ ước hoài. Chẳng phải nhìn trên, ngó dưới, dòm trái, liếc phải mỗi một khi nói, khi làm bất cứ chuyện chi.

Ai đời phó thường dân tui đang sống yên lành lại có thằng cha tới ca bài con cá hòa hợp, hòa giải (theo nghị quyết 36). Mỗi lần nghe “khúc ruột nghìn dặm, tình tự quê hương chùm khế ngọt” là rụng rốn. Thằng chả còn dứ dứ cái mẻ “Hàng triệu kiều bào có nguy cơ mất quốc tịch” như thể là món mồi ngon để cáo (sắp) chết quay đầu về cố quận, đầu tư mua nhà dọn sẵn cho chuyện hậu sự.

Má ơi, hồi đó con chạy dắt giò lên cổ vì sợ phải nín thở qua cầu sống trong chế độc tài cộng sản mà giờ này tự nhiên bại não hay sao mà nhận cái hộ chiếu (chế độ) thổ tả đó.

Tui chắc mấy chả tưng tửng rồi nên mới chơi trò khỉ đột như dzậy. Sang đến thế kỷ 21 này, thuyền nhân người Việt vẫn còn vượt biển sang Úc[14], lao động xuất khẩu trốn ở lại nước[15] ngoài hầm bà rằng. Bộ không phải họ bỏ phiếu bằng chân từ bỏ cảnh đời “nín thở qua cầu” ở “chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt” độc tài, độc đảng thối tha ba đời rồi còn gì.

Cả dân tộc Việt Nam đã “nín thở qua cầu” để sống còn dưới chế độ độc tài, độc đảng vô nhân. Nhưng “nín thở qua cầu” hoài thì chịu đời sao thấu. Ai mà hổng thấy sao?

Thiên hạ không ai còn muốn nín thở qua cầu nữa nè. Ai mà không thấy luồng gió dân chủ từ cách mạng hoa nhài, khối 8406, phát súng hoa cải anh em Đoàn Văn Vươn, mạng lưới blogger, văn đoàn độc lập, nhóm vận động về quyền con người, Hội Phụ nữ Nhân quyền, diễn đàn Xã hội dân sự, Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do, Hội Dân oan, Hội Tù nhân lương tâm và các nhóm xã hội dân sự khác cùng với công dân và nông dân đang bùng nổ.[16]

Người dân không thèm nín thở qua cầu nữa. Ai cũng muốn hít thở bầu không khí tự do dân chủ trọng quyền làm người – cái quyền cơ bản đã có từ khi mới lọt lòng. Cả thế giới đã công nhận rồi mà trời. Dù tỏ lộ hay không, mấy ai còn chấp nhận áp bức và cưỡng hại bởi tà quyền đảng trị đâu.

Tui và biết bao người trong và ngoài nước không còn ngờ là chuyện sang giai đoạn sống khỏe re (không) như con bò kéo xe còn xa lắc xa lơ. Nhưng trời có muốn cũng không cản nỗi.

Tất cả cùng nhau quăng xuống sông cái lối sống “nín thở qua cầu”.

© 2014 Vietsoul:21


[Loạt bài Phó Thường Dân: (1) Anh tám hồ hởi – (2) Nôị-thực-dân – (3) Sợ – (4) Kỳ đà – cắc ké – kỳ nhông – (5) Con dân – con cá – cò mồi – (6) Bình vôi – bái vật – bà đồng – (7) (Vô) Hậu  – (8) Gió mưa là chuyện của trời …  – (9) Vô liêm sỉ – man rợ – (10) Phế-anh-hùng – (11) Luật Lệ(nh) … (12) Nhà em có nuôi một con két … (13) Cái nhà là nhà của ta … (14) Mèo – thỏ (15) Phố Vẫy (16) Mít tờ Đàm và Bác Hồ (18) Bán Thân – Bán Thận – Bán Thần (19) Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm]

Chuyện những chiếc cầu chưa gãy” nhiều nguồn trên mạng

[2]Khóc chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-il qua đời”, Youtube

[3]Không khóc thương lãnh tụ là có tội?”, Soha.vn

[4]Tôi khá tự do ở Việt Nam”, BBC Tiếng Việt

[5]Cầu sập vì người Mông đi rất nhanh”, Dân Làm Báo

[6]Sinh mạng bọt bèo”, Dân Làm Báo

[7]Cái đêm hôm ấy … đêm gì?”, Phùng Gia Lộc (Vietsoul21)

[8]Chân dung của một tên bồi bút”, Dân Làm Báo

[9]Kẻ bị mất phép thông công”, Nguyễn Mạnh Tường (Viet-studies)

[10]Con trai thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng được đề bạt làm Phó bí thư tỉnh ủy Kiên Giang”, Dân Luận

[11]Con trai Bí thư Lê Thanh Hải lên chức”, BBC Tiếng Việt

[12]Chuẩn bị vai trò lãnh đạo cho thế hệ thái tử đảng”, Viet-studies

[13]Khỏe re như con bò kéo xe”, tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu

[14]Thuyền nhân Việt Nam vượt biển qua Úc tăng vọt”, RFI Tiếng Việt

[15]Lao động bỏ trốn tại Hàn Quốc sau khi hết hợp đồng: Phạt 100 triệu đồng vẫn không sợ”, danviet.vn

[16] Người dân Ninh Thuận biểu tình ngày 27/3/2014 phản đối việc khai thác titan và công an bắt người vô cớ, Dân Luận.
Nông dân oan Đồng Nai cùng dân oan miền Tây biểu tình tại Sài Gòn ngày 02/04/2014 & Hàng ngàn người dân Phản Đối chính quyền cưỡng chế, cướp đất tại xã Quỳnh Văn, Quỳnh Lưu, Nghệ An, Dân Làm Báo

Lê Diễn Đức – Từ độc lập đến chế độ thực dân cộng sản

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Tạp văn on 2013/09/01 at 23:59

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Từ năm 1954 trên miền Bắc và từ năm 1975 trên cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), nắm quyền cai trị đất nước, đã và đang áp dụng một chế độ thực dân kiểu mới, đó là chế độ thực dân cộng sản.

Trong bản Tuyên ngôn độc lập, ông Hồ Chí Minh nói:

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Ông Hồ cũng nhấn mạnh rằng, “hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa“.

Thế nhưng, tình từ năm 1954, đến nay là 59 năm. Thực dân cộng sản đã lợi dụng lá cờ yêu nước, giải phóng dân tộc, đặt ách thống trị, áp bức đồng bào ta ra sao?

Tất cả các câu in chữ nghiêng dưới đây được ghi nguyên văn từ bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minhdành cho thực dân Pháp. Chúng gần như chính xác hoàn toàn với chế độ thực dân cộng sản.

* “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”.

Đây là vấn đề nhất quán. “Bỏ điều 4 là tự sát”, cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nói như thế, khẳng định sự lãnh đạo toàn diện và thống nhất của ĐCSVN đối với nhà nước và xã hội. Hệ thống chính trị áp đặt chế độ độc quyền, đặc quyền, đặc lợi; cấm thành lập hội hay các tổ chức chính trị độc lập, không thực thi bầu cử tự do, mọi sắp xếp nhân sự trong bộ máy nhà nước đều được cơ cấu theo phương thức “đảng cử, dân bầu”; kiểm duyệt gắt gao báo chí truyền thông, xuất bản; cấm tụ tập đông người…

Tóm lại chế độ thực dân cộng sản bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ, chà đạp thô bạo lên những quyền công dân cơ bản nhất. Dân chủ trong chế độ thực dân cộng sản là một khái niệm xa vời, xa xỉ.

* “Chúng thi hành những luật pháp dã man…”

Hiến pháp được tạo ra chỉ là hình thức biểu diễn. Chế độ thực dân cộng sản tạo ra rất nhiều luật và các văn bản dưới luật như Thông tư, Nghị định vi hiến. Ví dụ, quyền được tự do ngôn luận, báo chí được hiến pháp bảo hộ bị Bộ Luật Hình Sự giết chết bằng điều 258 với những luận chứng mơ hồ, để có thể bỏ tù bất cứ ai có chính kiến trái ngược với chủ trương chính sách của nhà nước, dù chỉ là ý kiến phê phán ôn hoà. Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, là hình thức bị miệng xã hội, cấm các trang cá nhân trên mạng xã hội không được chia sẻ, tổng hợp tin tức lấy nguồn từ báo chí chính thống. Nghị định Nghị định 38/2005 của Chính phủ về cấm tụ tập đông người đã hoàn toàn chà đạp lên quyền được biểu tình ghi trong hiến pháp, v.v…

Tất cả những luật pháp dã man này chỉ nhằm mục đích bắt giam, bỏ tù những công dân yêu nước, có ý thức phản biện xã hội và tinh thần phê phán xây dựng.

* “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.

Nhà tù được xây dựng, tu bổ và mở rộng khắp các tỉnh. Các trung tâm phục hồi nhân phẩm cũng được tận dụng để hốt và bắt giữ những người tham gia biểu tình chống quân Trung Quốc xâm lược. Công an và công an bận quần áo dân sự giả danh côn đồ cùng với côn đồ thật trong vai dân phòng đã đánh đập dã man những người yêu nước. Các cuộc biểu tình yêu nước dù chưa bị tắm trong bể máu nhưng đã bị đàn áp thô bạo và dẹp tan bằng bạo lực.

* “Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân”.

Trong cuốn “A History of Reading”, Alberto Manguel, nhà văn Argentina, viết:

”Các chế độ độc tài không muốn chúng ta suy nghĩ, nên ngăn cấm, đe dọa và kiểm duyệt. Trước và sau đều nhằm mục đích làm chúng ta ngu ngốc và cam phận với sự xuống cấp về sự hiểu biết của mình. Vì vậy các chế độ này khuyến khích tiêu thụ những thứ rác rưởi. Trong bối cảnh này, đọc sách báo ngoài luồng kiểm duyệt trở thành hoạt động phá hoại”.

Một hệ thống hơn 700 tờ báo, 67 đài phát thanh truyền hình, hàng trăm trang tin, báo điện tử, hàng ngàn trang tin của các bộ, ngành, 17.000 nhà báo và hàng chục ngàn dư luận viên truyền miệng và “bút chiến” trên Internet, cùng với bộ máy kiểm duyệt, thực sự là công cụ hữu hiệu phổ cập thông tin tuyên truyền, ngăn chặn thông tin ngoài luồng, thực thi chính sách ngu dân để trị. Con số hơn 31,3 triệu người sử dụng internet, chiếm 35,58% dân số (tính đến 11/2012) chỉ đúng ở thông kê thuần tuý. Số người truy cập thông tin ngoài luồng vẫn chỉ là số ít, trong khi hơn 70% dân số sống ở nông thôn không có điều kiện tiếp cận. Thông tin là tri thức, chế độ thực dân cộng sản biết rất rõ.

* “Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”.

Mặc dù thuốc phiện, ma tuý trên phương diện chính thức bị cấm, nhưng mạng lưới cung cấp lẻ ma tuý của Việt Nam rất phát triển, mà chợ Thanh Nhàn ở Hà Nội, bến xe Miền Đông (quận Bình Thạnh, Sài gòn), là những ví dụ. “Thuốc lắc”, từ thường gọi của giới nghiện dùng để chỉ Ecstasy, một loại ma túy tổng hợp dạng viên nén, viên nang, bột trắng hay màu, cũng được sử dụng nhiều tại một sô bar- nhà hàng ở Hà Nội và Sài Gòn.

Ăn nhậu thì khỏi nói. Ở đâu cũng có quán nhậu, người người nhậu, giờ nào cũng nhậu, từ các phố chính đến các hẻm nhỏ. Việt Nam đứng đầu khu vực Đông Nam Á về mức tiêu thụ bia với gần 2,6 tỷ lít bia trong năm 2011, vượt xa hai nước đứng ở vị trí tiếp theo là Thái Lan và Philippines.

Chưa kể nhiều nguồn bia, rượu làm giả, gây độc hại lâu dài cho sức khoẻ con người được bán tràn lan, dường như không có kiểm tra của cơ quan chức năng.

* “Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu”.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chế độ thực dân cộng sản đã tạo nên một giai tầng giàu có mới, ước tính chiếm khoảng 2-3% dân số, phần còn lại, nghèo đói được chia đều. Giới giàu có này bao gồm chủ yếu các quan chức cộng sản có chức quyền, giàu có từ tham nhũng, ăn lại quả hợp đồng hoặc rút ruột công trình, các doanh nhân thừa cơ “đục nước beo cò”, đầu cơ trục lợi…

Ngày 27/06/2013, tại hội thảo “Bức tranh nông thôn, nông dân Việt Nam nhìn từ cuộc điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình” diễn ra tại Hà Nội, ông Nguyễn Duy Lượng, Phó Chủ tịch Trung Ương Hội Nông dân Việt Nam cho biết, người nông dân Viêt Nam hiện nay sở hữu nhiều cái “nhất”: Đông nhất, nghèo khổ nhất, chịu nhiều thiệt thòi nhất, bất lực nhất, dễ bị tổn thương nhất, đời sống bấp bênh nhất…

Ruộng vườn bị tước đoạt bất công, từ hai thập niên nay dân oan đi khiếu nại liên tục, ăn nằm vật vã nơi vỉa hè, công viên, bị khám xét, hạch sách, xua đuổi, đánh đập và bắt giữ. Đất đai không những bị thu hồi cho các công trình công cộng và còn cho cả doanh nghiệp tư nhân (như ở Văn Giang cho dự án Ecopark).

Chỉ trong vòng 4 năm 2008-2011 đã có hơn 1,57 triệu lượt người đến các cơ quan hành chính nhà nước để khiếu nại tố cáo, với gần 673 nghìn đơn thư, trong đó, trên 70% là khiếu kiện liên quan đến đất đai.

Trong bài “Thâu tóm đất đai“, nhà văn Phạm Đình Trọng viết:

”Thâu tóm đất đai đã tạo ra dòng người dân oan khiếu kiện đất đai kéo dài vô tận trên cả nước và kéo dài vô tận trong thời gian, đã làm hư hỏng nhiều quan chức trong bộ máy nhà nước. Thâu tóm đất đai, một người đơn độc không thể làm được mà phải là cả một hệ thống quyền lực nhà nước. Thâu tóm đất đai đã làm cho cả một hệ thống quyền lực nhà nước đối lập với dân, làm tha hóa bộ máy nhà nước, gây mất ổn định xã hội, thủ tiêu thế mạnh của những vùng đất đặc thù, làm mất mát, hao hụt, hoang phí rất lớn đất vàng, đất bạc của nông nghiệp, đẩy nhiều gia đình nông dân vào cảnh khốn cùng, không còn đường sống.

Thâu tóm đất đai đã tàn phá cả cơ cấu, nền tảng xã hội, phá nát cả qui hoạch tổng thể, hợp lí của đất nước, gây nguy hại lớn lao và lâu dài gấp nhiều lần thâu tóm ngân hàng lại chưa được coi là tội phạm nên thâu tóm đất đai đã ngang nhiên diễn ra từ hàng chục năm nay và đang diễn ra quyết liệt, rộng khắp trên cả nước”.

Dự án, quy hoạch vẫn cứ đẻ ra để có ăn! Từ các khoản vay của nước ngoài. Nợ nước ngoài năm 2006 là 18,3 tỷ USD, đến ngày 31/12/2011 đã ở mức khoảng 1.042 nghìn tỷ đồng (khoảng 50 tỷ USD), bằng 41,5% GDP. Như vậy trong khoảng thời gian Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ tướng, nợ nước ngoài đã tăng hơn gấp đôi.

Vay nước ngoài để đầu tư phát triển là cần thiết, nhưng hiệu quả đầu tư đã giảm sút mạnh mẽ. Nếu giai đoạn 2000-2005 bỏ ra gần 5 đồng có thể tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP, đến giai đoạn 2006-2010 phải bỏ ra 7,4 đồng, sang năm 2012 ước tính là 7,56 đồng.

Tài nguyên bị khai thác ồ ạt bất chấp môi sinh, nhưng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, một dịch vụ bạc cắc. Đất nước ngày mỗi nợ nần, kiệt quệ về nguồn tài lực.

* “Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng”.

Điều này thì qua rõ. Ngân hàng nhà nước buôn vàng và nhập khẩu vàng không bị hải quan kiểm tra, là cái quyền của mafia trong hệ thống hiện nay. Xuất cảng và nhập cảng nằm chính sách thâu tóm của các nhóm lợi ích nhà nước nhằm ăn chặn, hưởng lợi.

* “Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng”.

Thôi thì đủ các loại phí, chỉ cần lên Facebook nghe dân chúng kêu ca phàn nàn là thấy. Bộ máy hành chính công kềnh, vừa cơ quan đảng, vừa cơ quan của chính phủ tồn tại song song trong một nhà nước và ăn vào ngân sách, khiến dân chúng phải chịu đủ loại phí hay đúng hơn là thuế để nuôi cán bộ. Chuyện trong một xã mà có hàng trăm cán bộ ở huyện Quảng Xương, Thanh Hoá là một bi kịch.

Bài “Dân nghèo “gánh” các khoản thu vô lý” trên tời Dân Trí hôm 13/09/12, viết: “Người nông dân xã Hoằng Lương “một nắng hai sương” chỉ trông chờ vào mấy sào ruộng để trang trải cuộc sống, nhưng sau mỗi vụ thu hoạch, người dân lại phải è cổ đóng góp hàng chục khoản thu vô lý mà họ không thể từ chối”.

Bài “Nhiều khoản thuế vô lý“, tờ Ngừơi Lao Động ngày 15/09/2012, viết “đang kiệt sức và phải tả xung hữu đột để tìm đường sống, doanh nghiệp còn bị thu thuế 2 lần hoặc phải chịu những khoản thuế oan ức”.

Người lao động đã nghèo càng nghèo thêm vì kinh tế khốn khó, vật giá gia tăng, cộng thêm đủ các loại lệ phí, thuế, đấy là chưa nói đên loại phí “bôi trơn” khi phải giải quyết một việc gì đó ở cơ quan công quyền.

* “Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.

Kinh tế quôc doanh với nhiều ưu đãi là xương sống của nền kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa và nắm vai trò chỉ đạo, điều nay ai cũng biết. Doanh nghiệp tư nhân muốn phát triển rất chật vật vì khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Trong thời gian qua đã có tới cả trăm ngàn doanh nghiệp ngưng hoạt động hoặc phá sản.

Công nhân lao động bị bóc lột thậm tệ dưới thời thực dân cộng sản, lương quá ít, ăn uống không đủ chất, thường xuyên bị ngộ độc thực phẩm hàng loạt trong các khu công nghiệp. Tư bản thực dân đỏ, mafia kết hợp chặt chẽ với tư bản xanh, ra sức bóc lột tận cùng nguồn lực của giai cấp bần cùng này.

Hội nghị tổng kết của Bộ Lao Ðộng, Thương Binh và Xã Hội tổ chức hồi đầu năm 2012 cho thấy, từ năm 1995 đến nay, cả nước đã xảy ra 4.142 cuộc đình công. Trong đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Ðài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản… chiếm 75.4% với 3.122 cuộc. Tỷ lệ này đang có xu hướng tăng dần qua các năm. Năm 2011, số vụ đình công đạt mức kỷ lục với 978 vụ so với năm 2010 là 422 vụ, năm 2009 là 218 vụ, năm 2008 là 720 vụ…

Tổng Liên đoàn Lao động hoạt động lỏng lẻo, là công đoàn lao động quốc doanh và duy nhất, các cuộc đình công được tổ chức tự phát thường phải đối mặt với lệnh bắt giữ hoặc các biện pháp trừng phạt khác.

Kết luận

Đổ bao nhiêu xương máu để giành độc lập, nhưng nhân dân Việt Nam hoàn toàn không được hưởng tự do. Cả nước là một nhà tù vĩ đại mà mọi người đều có thể là một người tù dự khuyết.

Chế độ thực dân cộng sản thực chất là chế độ của một tập đoàn thiểu số “ăn trên ngồi trốc”, chỉ thu vén lợi ích riêng, vinh thân phì gia, phản bội lại tất cả những gì mà họ hô hào, kéo cả dân tộc vào những cuộc chiến tương tàn vô nghĩa.

© Lê Diễn Đức – RFA Blog

 

Phạm Thị Hoài – Nhân bản

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn on 2013/08/27 at 12:17

Trên Quân đội Nhân dân ngày 18-8-2013, trong bài mở đầu đợt phản công lời kêu gọi thành lập một đảng dân chủ xã hội của ông Lê Hiếu Đằng, một tác giả Trọng Đức nào đó lập luận như sau: “Trên thực tế, dân chủ không phụ thuộc vào chế độ độc đảng hay đa đảng mà nó phụ thuộc vào bản chất chế độ cầm quyền phục vụ giai cấp nào”. Hai ngày sau, một thạc sĩ Phạm Văn Thiết cũng phát biểu gần nguyên xi như vậy, cũng trên tờ báo này. Nhưng nguyên vẹn câu này thì đã được một PGS TS Nguyễn Mạnh Hưởng diễn đạt trong bài “Vì sao Việt Nam không cần đa đảng”, đăng trên trang tin của Đài Tiếng nói Việt Nam từ hơn hai năm trước, ngày 18-1-2011. Song đó cũng không phải là hồ sơ gốc của trị số tư tưởng này vì trước đó, ngày 8-8-2010 cũng trên Quân đội Nhân dân, một TS Lê Văn Bảo đã viết hệt như vậy trong bài “Dân chủ phụ thuộc vào bản chất đảng cầm quyền”, còn theo tường thuật của báo Công an Nhân dân ngày 03-6-2013 thì Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp cũng đưa ra kết luận như thế. Tài sản tuyên huấn của bộ máy tư tưởng chính thống ở Việt Nam hẳn là sở hữu trí tuệ tập thể, nhiều người có thể cùng là tác giả của một câu, giống nhau đến từng chữ.

Nhưng báo chí tuyên huấn còn có lệ nhân bản một người thành nhiều người. Bài “Dân chủ phụ thuộc vào lí tưởng và bản chất chính trị của đảng cầm quyền” được báo Nhân dân ngày 08-3-2013 giới thiệu là của một độc giả Mai Hoàng Kiên. Song Mai Hoàng Kiên cũng chính là độc giả Trung Thành với bài “Không ai có thể phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam!” đăng ngày 25-2-2013, là độc giả Tuyên Trần với bài “Quay đầu lại là bờ” đăng ngày 22-3-2013, là độc giả Tường Anh với bài “Vạch mặt những kẻ mạo danh“ đăng ngày 14-1-2013, là độc giả Trần Mai với bài “Từ hải ngoại nghĩ về các ‘nhà dân chủ’” đăng ngày 30-10-2012, là độc giả Hữu Đức[i] với bài “Vì sao, vì mục đích gì?” đăng ngày 13-11-2013 trên chính tờ báo này…, đồng thời là tác giả Trọng Linh với bài “37 năm bị bịt miệng trên xứ sở tự do” trên báo Công an Nhân dân ngày 27-3-2012 cũng như là Khánh Sơn của một Tạp chí Nhân quyền nào đó, và tất cả lại đều là một người, với bút danh Amari TX, xuất hiện gần đây nhất với bài “Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan” đăng ngày 22-8-2013 trên Nhân dân. Tất cả những thông tin này được Amari TX, tự giới thiệu là một người Việt ở Mỹ, trưng ra như thành tích trên blog cá nhân ít người biết đến của mình.

Bước ngoặt bất ngờ nhất của câu chuyện nhân bản dư luận viên này là mới đây, một blogger bỗng phát hiện ra rằng Amari TX tức Mai Hoàng Kiên tức Trung Thành tức Tuyên Trần tức Tường Anh tức Trần Mai tức Hữu Đức tức Trọng Linh tức Khánh Sơn ad libitum cũng chính là TS Hoàng Văn Lễ, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Xây dựng Đảng. Điều này không có gì là hoang đường tới mức không thể tin nổi, rốt cuộc thì ông trùm tuyên huấn của chế độ, Hồ Chí Minh, đã đặt cả nền móng lẫn kỉ lục khó vượt qua cho chiến thuật phân thân và hóa thân bằng vô số bút hiệu. Nhưng tiếc rằng phát hiện nêu trên hơi quá vội. Phiếu xét nghiệm tư tưởng của ông TS Hoàng Văn Lễ sống ở Việt Nam trên Sài Gòn Giải phóng ngày 26-8-2013 cho thấy một nhóm trị số hoàn toàn khớp với phiếu của ông Việt kiều Amari TX sống ở Houston trên Nhân dân ngày 22-8-2013, song cũng hoàn toàn khớp với phiếu của ông PGS Trần Đình Huỳnh, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, trên Tạp chí Cộng sản số 844 từ tháng 2-2013. Bây giờ muốn thanh minh rằng mình không phải Amari TX thì ông Hoàng Văn Lễ chỉ có cách chứng minh rằng mình chính là Trần Đình Huỳnh. Tương tự như vậy, thạc sĩ Phạm Văn Thiết chỉ có thể thanh minh rằng mình không phải Amari TX bằng cách chứng minh rằng mình chính là TS Lê Văn Bảo. Huyết đồ tư tưởng giống hệt nhau của họ được biểu hiện chẳng hạn qua câu này: “Nói chung ở các nước tư bản, về hình thức, đa đảng chính trị đều ‘tự do’, ‘bình đẳng’ trong cuộc đấu tranh nghị trường và đều có khả năng trở thành đảng cầm quyền, nhưng trong thực tế chỉ có các đảng lớn, có thế lực mới có khả năng chiến thắng và bao giờ cũng có một đảng cầm quyền hoặc lãnh đạo, có khi kéo dài nhiều thập kỷ.” Who is Who phiên bản Việt ngữ.

Quả là không có điều quái gở nào mà con người còn chưa nghĩ ra lại xa lạ với guồng máy tuyên huấn Việt Nam. Trong những vụ nhân bản dư luận viên và nhân bản trị số tư tưởng này, tôi không biết điều gì đáng kinh hơn: sự giáo điều hay sự hạ cấp của luộm thuộm, cẩu thả, ngu ngốc, lười biếng, nhếch nhác. Mọi đối thoại không cùng đẳng cấp đều vô nghĩa. Ước gì những người chống giáo điều và thảo phạt tuyên huấn có được một đối thủ uyên bác, độc đáo, chân thực và một guồng máy tuyên huấn nghiêm túc, chuyên nghiệp.

© 2013 pro&contra

 


[i] Lời giới thiệu của báo Nhân dân cho bài viết của Hữu Đức, tức Trần Mai, xứng đáng được đưa vào giáo trình cho sinh viên báo chí, nguyên văn như sau: “Sau khi Báo Nhân Dân đăng bài Từ hải ngoại nhìn về “các nhà dân chủ” của tác giả Trần Mai gửi từ nước Mỹ, trên một số website và blog đã có ý kiến thực hiện theo lối cắt xén, suy diễn, để từ đó phản đối bài viết của Trần Mai và quy kết là “nhận định sai lầm nghiêm trọng… về quyền con người”, và lặp lại luận điệu cho rằng, Nhà nước đã đi ngược lại các tuyên ngôn, công ước quốc tế liên quan tới vấn đề nhân quyền mà Việt Nam đã ký kết! Bình luận về sự kiện này, cũng từ nước Mỹ, bạn đọc Hữu Ðức mới gửi tới tòa soạn bài Tôi thật sự không hiểu tại sao, vì mục đích gì?, xin giới thiệu cùng bạn đọc.”

Alvaro Marino – Không, tôi không cần sự khoan hồng

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Thế giới on 2013/05/22 at 16:22

Theo blog Nguyễn Văn Nguyên

Alvaro Marino (1959-1981?) là một sinh viên văn khoa ở đại học La Habana và là một nhà thơ trẻ. Từ năm 1979 đến 1980, Alvaro đã bị công an tạm giữ và thẩm vấn nhiều lần vì “thái độ chính trị”. Ngày 11 tháng 3 năm 1981, trong khi đang dán một tấm bích chương chống chế độ độc tài Fidel Castro, anh đã bị bắt bởi một nhóm người mặc thường phục. Alvaro Marino vĩnh viễn mất tích kể từ đó.

Ofelia González, người yêu của anh, còn giữ được cuốn nhật ký của anh, trong đó có một số tuỳ bút và 3 bài thơ. Cô đã lén gửi cuốn nhật ký ấy ra nước ngoài, và sau đó, bài thơ “No, yo no necesito el perdón” [“Không, tôi không cần sự khoan hồng”] đã được đăng trong tuyển tập Los poetas cubanos disidentes [Những nhà thơ bất thoả hiệp ở Cuba] do Xavier Mudarra biên tập, xuất bản tại San Martín, Peru, năm 1992.

 

Nếu ngày mai bọn chúng đến đây bắt tôi,
tôi sẽ không cần tự biện hộ,
tôi sẽ không cần ai biện hộ cho tôi,
tôi cũng không cần một gã luật sư công chức
— kẻ chỉ biết đứng trước toà và nói: “Xin hãy khoan hồng…”

Không, tôi không cần sự khoan hồng
vì tôi không có tội.
Tôi chỉ khao khát sự tự do cho đất nước này
và tôi sẵn sàng chết cho điều đó.
Hãy treo cổ tôi lên với bản án: “Đây là kẻ ngoan cố
— kẻ đã dám khao khát tự do.”

Ở đất nước này mọi bản án đều đã được viết sẵn
và đã được để sẵn trong hộc bàn của những quan toà.
Lũ hèn nhát sẽ lấy một bản án ra và điền tên tôi vào,
và tôi sẽ nghe bọn chúng đọc thuộc lòng
những ngôn từ mà mọi người đều đã biết.

Không, tôi không cần sự khoan hồng cho tôi,
vì tôi cũng sẽ không khoan hồng cho bất cứ kẻ nào
dám giẫm đạp lên sự tự do như giẫm đạp lên rác rưởi.

Không, tôi không cần sự khoan hồng.
Ở đất nước này mọi bản án đều đã được viết sẵn.

Alvaro Marino

BS Hồ Hải – Hiến Pháp, Tên Nước và Chiếc Mặt Nạ của Thể Chế Chính Trị

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Việt Nam on 2013/01/26 at 21:15

Ngồi điểm lại, hầu hết những cái tên nước mỹ miều đều là tấm mặt nạ che đậy cái thú tính của chính khách hòng mỵ dân để kiếm ăn, và kiếm danh.

Sau khi hoàn thành các cuộc cách mạng vô sản tắm máu, hầu hết các chính khách theo con đường của Lenin vạch ra đều đặt cái tên nước rất mỹ miều, để che đậy tham vọng thú tính của mình.

Đứng đầu là anh cả đỏ Trung Hoa, Mao đã đặt cái tên có chữ nhân dân, để thể hiện con đường đi của mình là theo con đường tam dân của Tôn Dật Tiên sao chép từ nước Mỹ. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, nghe rất đẹp, rất vì dân, của dân, và do dân, nhưng trải qua hơn 60 năm qua, Trung Hoa chưa bao giờ là một chế độ vì nhân dân, của dân và do dân.

Một số nước còn sót lại có cái tên nước gắn với chữ nhân dân, cũng bắt đầu bằng con đường cách mạng vô sản, tắm máu dân, rồi sau đó đàn áp nhân dân và bóc lột nhân dân cũng không kém Trung Hoa là, Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Cộng Hòa Nhân dân Banglades, và sau 1945 thì Việt Nam cũng có cái tên, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!

Sau sụp đổ Đông Âu và Liên Xô, đầu thập niên 1990s hàng loạt khoảng gần 30 quốc gia đổi tên và bỏ chữ Nhân dân mỹ miều, mỵ dân của nước để trở thành các nước Cộng hòa hoặc Liên bang. Và hầu hết các nước này sau khi đổi tên đều hướng nền chính trị đi theo con đường mà người dân có chút cái gì gọi là của dân, vì dân và do dân.

Sau khi Myanmar rút cái tên dài dằng dặt gắn với mỹ từ Xã hội chủ nghĩa là, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên Bang Myanmar để đổi thành Cộng hòa Liên bang Miến Điện thì có một điều đặt biệt là, cái tên nước còn gắn với cái ngữ “Xã hội chủ nghĩa” thì trên thế giới này chỉ còn có 2 quốc gia. Đó là, đứng đầu có nước Việt Nam – Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam – cái tên này chính thức ra mắt cái mặt nạ thú tính vào ngày 02/7/1976, sau cuộc trường kỳ tắm máu 20 năm, mà cả 2 miền các chính khách đều làm tay sai của ngoại bang, để dân tộc và tổ quốc làm tấm bia đỡ đạn cho các cường quốc 2 phe hắc bạch chạy đua vũ trang và thử vũ khí. Một nước thứ hai, đến giờ này vẫn còn nội chiến, nhưng tên nước gắn với “mỹ từ” Xã hội chủa nghĩa là, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka. Hiến pháp của 2 nước Xã hội chủ nghĩa này viết theo Chủ nghĩa xã hội, nhưng cho tới giờ này cả thế giới loài người chưa có đủ khả năng trí tuệ hiểu chủ nghĩa xã hội là gì ngoài cái chủ nghĩa xã hội Phát Xít Đức, nên bèn copy cái điều 6 hiến pháp của Hitler và của Liên Xô cũ để làm điều tiên quyết trong hiến pháp của mình, hòng độc quyền ăn chia và cai trị dân.

Nhân dân, nhưng chưa bao giờ là của nhân dân, mà là của các ông chủ chính khách độc tài, thú tính và bẩn kiệt. Dân chủ mà không dân chủ vì hầu hết các nước này có hiến pháp và luật pháp chỉ để làm kiểng, còn việc hoạt động cả hành pháp, tư pháp lại xem lập pháp là cái bồn cầu để ngồi lên xả chất thải. Xã hội chủ nghĩa lại càng là khoa học viễn tưởng giữa thế giới loài người. Đó là thực tế khách quan của lịch sử nhân loại đã minh chứng trên hầu hết các nước có các “mỹ từ” và “mỵ từ” này.

Tên nước càng mỹ miều thì ẩn sau nó là một mưu đồ xấu xa và bẩn kiệt nhất của chính khách cầm quyền. Thà cái tên đơn giản như Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ mà lại rất nhân bản, rất dân chủ và rất tự do, luôn thực hiện đúng với tuyên ngôn độc lập mà ngay cả hầu hết các nước có cái tên mỹ miều kia đều phải mượn làm chiếc mặt nạ để mỵ dân.

Gần đây các lãnh đạo và think tanks của đất nước mình bắt đầu bạch hóa chuyện lừa dối và thảm kịch suy đồi văn hóa có thể làm sụp đổ chế độ. Chiếc mặt nạ đã được mang vác hơn nửa thế kỷ đã đến lúc ai cũng không thể mang để lừa dối nhau. Thôi thì đã đến lúc cần thay đổi tên nước, và hiến pháp để có một sự thay đổi chính trị toàn diện cho con người ta sống với nhau tử tế hơn.

Nguồn: Blog BS Hồ Hải

Trần Trung Đạo: “Hãy tôn trọng lịch sử” nhưng lịch sử nào?

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết on 2013/01/22 at 17:59

Tôi chưa đọc Bên Thắng Cuộc đầy đủ để viết về tác phẩm này. Sách do một người em gởi từ California vẫn chưa đến. Có thể khi đọc xong cả hai cuốn, sẽ nhận xét Bên Thắng Cuộc với tư cách một người miền Nam đã sống những năm khắc nghiệt ở Sài Gòn, “sinh viên chế độ cũ”, đi kinh tế mới, vượt biển và trăn trở cùng đất nước. Bài viết này chỉ bàn đến luận điểm mà các báo lề đảng dùng khi viết về tác phẩm Bên Thắng Cuộc

Hầu hết báo lề đảng đều đòi hỏi “Hãy tôn trọng lịch sử”, vâng, nhưng lịch sử nào?

Một trong những đề án lớn của các quốc gia thuộc khối CS Liên Xô cũ không chỉ phục hồi kinh tế, ổn định xã hội sau gần 80 năm sống trong chế độ toàn trị kinh hoàng nhưng là viết lại lịch sử. Các nhà sử học Nga dành nhiều năm để đánh giá các sự kiện diễn ra từ thời Vladimir Lenin đến Mikhail Gorbachev và cho đến nay vẫn còn đang đánh giá. Nhiều chi tiết như các điều khoản bí mật trong hiệp ước Molotov-Ribbentrop, việc chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic, sự giúp đỡ của đồng minh trong thế chiến thứ hai v.v… đã bị xóa trong sử CS. Một số sự kiện có nhắc đến nhưng lại cố tình viết sai thủ phạm như vụ tàn sát 22 ngàn sĩ quan Ba Lan tại Katyn vào tháng 3 năm 1940 được viết là Đức Quốc Xã chứ không phải do mật vụ Sô Viết hành hình. Không chỉ sử Nga mà cả lịch sử thế giới, sự sụp đổ của đế quốc La Mã, các hình thái kinh tế cũng được giải thích theo quan điểm CS. 

Các nhà sử học Việt Nam trong tương lai cũng sẽ nhức đầu như thế. Lịch sử không có một dòng chảy chính thống và trong suốt qua các thời kỳ đất nước. Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước là lịch sử của kẻ thắng trận, được giải thích theo quan điểm của kẻ thắng trận và để phục vụ cho mục đích của kẻ thắng trận. Lịch sử Việt Nam mà sinh viên học sinh đang học là lịch sử được phát ra từ cái loa, biểu tượng cho bộ máy tuyên truyền của chế độ, giống như cái loa mà Huy Đức có thể đã ám chỉ trong bìa sách Bên Thắng Cuộc

Rất nhiều tranh luận về lý do tồn tại của chế độ CS tại Việt Nam. Trong cái nhìn của riêng tôi, chế độ CS tại Việt Nam chưa sụp đổ, không phải nhờ đổi mới kinh tế, ổn định xã hội nhưng chính là nhờ tác dụng của cái “loa lịch sử” đó. Đảng CS ít nhiều đã thành công trong việc che giấu được tội ác và khoát cho mình chiếc áo chính danh, chính nghĩa hay ít nhất không một thành phần dân tộc nào chính danh, chính nghĩa hơn đảng CS. 

Đảng Cộng sản tại năm quốc gia sót lại từ phong trào CS quốc tế, đặc biệt Trung Quốc và Việt Nam đã pha chế chủ nghĩa Dân tộc vào chủ nghĩa Cộng sản thành một loại hợp chất gây mê man nhãn hiệu Dân tộc Xã hội chủ nghĩa. Đảng CS lý luận rằng họ ra đời để đáp ứng một nhu cầu lịch sử và, như một tác giả viết trong báo Pháp Luật, “những người cộng sản chỉ nối tiếp sứ mệnh mà lịch sử giao phó”. Lịch sử nào giao phó? 

Chủ trương nhuộm đỏ Việt Nam của đảng CS rõ như ban ngày khi đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc mang súng đạn Nga Tàu vào cưỡng chiếm miền Nam. Pháp rút sớm hay rút muộn, Mỹ đến hay không đến cũng chẳng ảnh hưởng gì đến mục tiêu thiết lập một nhà nước CS trên toàn lãnh thổ Việt Nam nhất quán từ ngày thành lập đảng CS vào năm 1930. “Độc lập dân tộc”, “Thống nhất đất nước” chỉ là những chiêu bài. Nếu không dùng khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng cũng thừa khả năng để nặn ra hàng trăm chiêu bài, khẩu hiệu hấp dẫn khác để kích thích và vận dụng lòng yêu nước. Bộ máy tuyên truyền của đảng nhồi nhét vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam, nhất là thế hệ sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến, rằng cuộc chiến tranh gọi là “Chống Mỹ cứu nước” trước 1975 là cuộc chiến chính nghĩa, “đánh Mỹ” là bước kế tục của chiến tranh chống Thực Dân Pháp. Đó là lý luận của kẻ cướp. Đảng CS không chỉ cướp đất nước mà cướp cả niềm tin và khát vọng của những người đã chết. 

Như tôi đã viết trước đây, miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Xây dựng một xã hội dân chủ vừa bước ra khỏi phong kiến và thực dân là một tiến trình vinh quang nhưng cũng đầy trắc trở. Dân chủ ở miền Nam như một chiếc cây non lớn lên trong mưa chiều nắng sớm. Nhưng dù có khó khăn, tham nhũng thối nát bao nhiêu đi nữa, đó cũng là vấn đề riêng của Việt Nam Cộng Hòa không dính dáng gì đến đảng CS ở miền Bắc. Những ông như Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết có đủ không gian và phương tiện để đấu tranh một cách hợp pháp tại miền Nam cho một xã hội tốt đẹp hơn như hàng trăm chính khách quốc gia khác. Dĩ nhiên, họ có thể thất bại, bị tù đày và ngay cả bị giết nhưng vẫn là những người quốc gia chân chính. Tuy nhiên, khi tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, chấp nhận làm công cụ cho đảng CS, họ đã tự chắt chiếc cầu biên giới giữa họ và nhân dân miền Nam. 

Tác giả viết trong Sài Gòn Giải Phóng nhắc đến “10 cô gái Đồng Lộc” mà không biết rằng nếu có thể hiện hồn về, công việc đầu tiên của các cô chết trong hố bom Đồng Lộc là đi tìm lãnh đạo đảng CS để thanh toán cả vốn lẫn lời vì cái chết oan uổng của các cô chỉ để đổi lấy một đất nước nghèo nạn, lạc hậu, một chế độ độc tài, tham nhũng, phản văn minh tiến bộ như ngày nay. 

Tác giả trên báo Sài Gòn Giải Phóng cũng nhắc đến đến “nhà tù Côn Đảo”, “nghĩa trang Hàng Dương” làm tôi nhớ đến nơi này. Tôi cũng đã từng đến đó, không phải vì phải ở tù mà chỉ vì muốn biết một di tích lịch sử của dân tộc. Đảng xem nhà tù Côn Đảo như một “trường đại học CS”, tài sản riêng của đảng CS nhưng đừng quên nhà tù Côn Đảo do thực dân Pháp lập ra năm 1862 tức 68 năm trước khi đảng CS ra đời. Năm 1945, đảng CS ước lượng có khoảng 5 ngàn đảng viên. Cho dù thực dân Pháp bắt và đày nguyên cả đảng ra Côn Đảo cũng không thể so với số tù nhân thuộc các phong trào yêu nước khác. Với tôi, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Trong suốt gần một thế kỷ trong bóng tối thực dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam đã bị bắt, tra tấn và đã hy sinh trên Côn Đảo. Những đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến chống Thực Dân và bỏ xác trên đảo đều xứng đáng được tôn vinh. 

Nếu họ đã từng là đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết trong tiểu luận Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương, việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó, vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát triển của các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính địa phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Đảng Cộng sản như một tổ chức thì khác. Mục đích của đảng CS không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà còn nhuộm đỏ cả dòng lịch sử. 

Tác giả viết trên báo Pháp Luật so sánh việc chính quyền miền Nam tra tấn các đảng viên CS và tù “cải tạo” sau 1975 khi kết án tác giả Bên Thắng Cuộc đã “Nhấn mạnh “chế độ hà khắc” của các trại cải tạo nhưng cuốn sách lại không nhắc đến những trại tù và cách ứng xử của chế độ Sài Gòn cũ đối với những người yêu nước.” 

Những kẻ ném lựu đạn vào nhà hàng, ám sát, đặt mìn trên quốc lộ 1, quốc lộ 4, đặt bom trong sân vận động, đốt chợ, đốt làng, giết người vô tội không phải tù chính trị hay tù binh chiến tranh mà chỉ là những tên khủng bố. Chúng là những kẻ yêu đảng chứ không phải là “những người yêu nước”. Bấm vào đây (http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/1718882116/in/set-72157627481846037)  để xem các “chiến công hiển hách” của Biệt động thành Sài Gòn Gia Định khi ám sát hàng loạt “Mỹ ngụy” còn mặc tã ở nhà hàng Mỹ Cảnh. Tội ác giết phụ nữ trẻ em của chúng phải được xét xử theo đúng luật pháp. Điều đó đã và đang được áp dụng tại mọi quốc gia trên thế giới không riêng gì Việt Nam Cộng Hòa. 

So sánh tù CS ở Côn Đảo và tù “cải tạo” là một cách so sánh vụng về và không cân xứng. Tổng số tù tại Côn Đảo khác nhau tùy theo bên nào tống kết, 5 ngàn theo con số của VNCH công bố và 17 ngàn theo con số của Hà Nội. Dù chọn con số 17 ngàn của đảng thổi phồng vẫn không thể so với hơn 200 ngàn công nhân viên chức và sĩ quan quân đội VNCH bị giam giữ trong 150 trại tù, đa số tận rừng sâu nước độc kéo dài từ 1975 đến 1992 mà chính Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng thừa nhận. Các tổ chức quốc tế ước lượng cho đến 1982 số viên chức và sĩ quan VNCH bị giam giữ vẫn còn lên đến 300 ngàn người. Theo tổng kết của báo chí Mỹ, khoảng 165 ngàn người đã chết trong các trại tù CS. Ngoài ra, hàng triệu thân nhân, gia đình, con cái họ bị đày ra các vùng kinh tế mới, bị bạc đãi như nô lệ thời CS chỉ vì lý lịch VNCH. 

Một điều quan trọng mà người dân miền Nam sẽ không bao giờ quên, không giống tù Côn Đảo xảy ra trong thời chiến, tội ác “tù cải tạo” vô cùng phi nhân đã được đảng thực thi sau khi đất nước đã hòa bình, sau khi Lê Duẩn ngọt ngào tuyên bố “chiến thắng này thuộc về nhân dân Việt Nam” và sau khi Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn Gia Định vuốt ve các viên chức VNCH còn trong Dinh Độc Lập “Nhân dân Việt Nam chính là người chiến thắng và chỉ đế quốc Mỹ mới thật sự là kẻ bại trận mà thôi.” 

Phân tích như vậy để thấy lý luận trong bài viết trên báo Pháp Luật cho rằng cuộc chiến chấm dứt sáng 30-4-1975 “không phải là chiến thắng của một “bên thắng cuộc” hạn hẹp mà là chiến thắng của mọi người Việt Nam, trong đó cả những người từng ở phía bên kia” đúng là sản phẩm của chính sách tẩy não. Miền Nam sau 30-4-1975 là một nhà tù và nhân dân miền Nam là tù nhân dưới nhiều hình thức khác nhau. 

Từ 1983, để tồn tại, đảng CS phải tự diễn biến hòa bình bằng cách mở thêm một vài ô cửa sổ cho gió vào nhưng thực chất đất nước vẫn còn bị bao bọc bằng bức tường dày bưng bít thông tin và một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào. Lý thuyết Mác Lê có thể chỉ còn trong đầu môi chót lưỡi, trong các diễn văn, trong các bài ai điếu của các lãnh đạo đảng nhưng các phương tiện chuyên chính, toàn trị CS vẫn không khác gì nhiều so với thời triệt để cách mạng trước đây. Một nhạc sĩ trẻ Việt Khang chỉ viết hai bài hát chống Tàu bị kết án bốn năm tù. Một cô gái Đỗ Thị Minh Hạnh mới ngoài hai mươi tuổi, đấu tranh cho quyền lợi công nhân phù hợp với luật pháp của đảng CS quy định bị kết án bảy năm tù, một thanh niên trẻ Lê Sơn chỉ đưa tin tức các cuộc biểu tình chống Trung Quốc và chống khai thác Bauxite tại Tây Nguyên bị kết mười ba năm tù. Và hàng trăm, hàng ngàn người khác đã sống và đã chết, nhiều trường hợp rất âm thầm, trong nhà tù CS chỉ vì dám nói lên khát vọng dân chủ tự do. 

Tác giả trên báo Sài Gòn Giải Phóng viết “Có thể lúc này lúc khác, Đảng có sai lầm. Cuộc sống khó khăn, đôi khi tôi cũng mất lòng tin vào đường lối của Nhà nước.” Hãy chỉ dùm tôi, không phải một năm, một tháng mà chỉ một ngày thôi đảng CS đã “lúc này lúc khác”. Bản chất của chế độ chưa hề thay đổi dù chỉ một giờ. 

Lãnh đạo đảng có 38 năm để chọn một hướng đi phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại, có hàng trăm cơ hội để sửa sai nhưng họ không làm. Tất cả chính sách của đảng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là củng cố quyền cai trị mặc cho dân tộc bị bỏ lại phía sau một đoạn đường quá xa so với đà tiến của nhân loại sau cách mạng tin học và toàn cầu hóa kinh tế cuối thập niên 1980. Tội ác của đảng với “tù cải tạo”, “kinh tế mới”, “đổi tiền”, “đánh tư sản”, có viết hàng tủ sách cũng không hết. Nỗi đau và sự chịu đựng vô bờ bến của nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, không thể nào diễn tả cạn dòng. Hàng ngàn câu chuyện thật đau lòng đã xảy ra trên con đường máu nhuộm Việt Nam sau 1975 và chỉ được phơi bày khi bức tường chuyên chính CS bị đạp đổ. 

Có hai cách để đạp đổ bức tường chuyên chính. Thứ nhất, đi mượn một cái búa lớn của các cường quốc đem về đập phá bức tường và thứ hai xoi mòn bằng những bàn tay nhỏ Việt Nam kiên nhẫn. Sau 38 năm, những người đi tìm búa hoặc chết trên đường hoặc trở về không. Còn lại hôm nay là những bàn tay Việt Nam nhỏ nhoi. Bàn tay Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Lê Văn Sơn và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước khác. Dù đang ngồi trong bốn bức tường đen, họ mới chính là những người đang viết sử và thấy đâu là sự thật. 

FB Trần Trung Đạo