vietsoul21

Posts Tagged ‘DÂN CHỦ’

Chúng ta bị công lí của chính mình đè bẹp

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Thế giới on 2013/01/21 at 09:39

Lưu Hiểu Ba

Phạm Thị Hoài dịch

Tiểu luận sau đây của Lưu Hiểu Ba được in trên tờ Central Daily News ở Đài Loan ngày 5-6-1993, nhân 4 năm Sự kiện Thiên An Môn. Lời phê bình các khuyết điểm của giới trí thức phản kháng Trung Quốc và phong trào sinh viên năm 1989 xuất phát từ trải nghiệm trực tiếp của ông. Khi phong trào nổ ra, ông đã bỏ dở chương trình nghiên cứu và giảng dạy của mình tại một số trường đại học Hoa Kỳ, mua một tấm vé không khứ hồi bay về Bắc Kinh ngày 27-4-1989 để hỗ trợ các sinh viên của mình trên Quảng trường. Tại đây, ông hướng dẫn và tranh luận với các sinh viên về phương pháp và mục đích đấu tranh, tham gia những cuộc đàm phán giữa sinh viên và chính quyền, và tham gia tuyệt thực ở giai đoạn cuối từ ngày 2-6. Ông bị coi là một trong những kẻ “giật dây” của phong trào và bị kết án tù lần thứ nhất, đến đầu năm 1991. Song ngay cả với tiểu sử ấy, các ý kiến phê phán của ông vẫn gây sóng gió trong phong trào dân chủ Trung Quốc, nhất là với những gia đình nạn nhân của vụ thảm sát 4-6.

Giới thiệu tiểu luận này trong bản dịch tiếng Việt, tôi tin rằng nó sẽ là một tham khảo bổ ích cho phong trào dân chủ Việt Nam.

Người dịch

_______________

Giới trí thức phản kháng và các lãnh tụ sinh viên Trung Quốc, những người tự thấy mình là anh hùng và chiến sĩ dân chủ, đều chỉ biết đến dân chủ từ sách vở. Họ không có khái niệm gì về việc thực hành nền dân chủ đó. Họ không hề biết phải xây dựng nền dân chủ như một hệ thống chính trị và một tòa nhà pháp lí như thế nào và phải đưa những nội dung gì vào đó. Trước khi phong trào dân chủ năm 1989 nổ ra, nhà vật lí thiên văn, giáo sư Phương Lệ Chi, được coi là một Sakharov của Trung Quốc, đã bỏ qua cơ hội bảo vệ quyền con người theo đúng luật pháp. Ông được Tổng thống Bush mời gặp nhưng bị chính quyền cản trở. Và ông đã lặng lẽ chấp nhận, không một lời phản đối. Cả đến khi phong trào dân chủ bùng nổ, ông Lưu Tân Nhạn, nhà bất đồng chính kiến được coi là “lương tâm xã hội của Trung Hoa”, vẫn đề cao chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội. Vẫn giữ nguyên lòng trung thành từng mất rồi lại được khôi phục của mình. Còn phong trào hiện tại thì được lãnh đạo bởi những người thậm chí không hiểu cả những nguyên lí cơ bản của dân chủ. Như thế, làm sao mà thành công được? Tình trạng đó chỉ có thể sinh ra những than vãn hời hợt về hệ tư tưởng.

Khi cảm giác về nghĩa vụ gánh vác một sứ mệnh lịch sử bị đẩy lên thái quá, các sinh viên đã đánh mất khả năng tỉnh táo để tự nhận định và khả năng tự kiềm chế để đạt hiệu quả cao. Họ không biết rằng những đôi vai mảnh khảnh của họ không gánh nổi một định mệnh nặng trĩu như vậy. Họ không cưỡng được sự cám dỗ rằng mình có thể đem lại công lí và tưởng rằng cứ lấy sinh mạng ra trả giá thì chính quyền sẽ buộc phải nhượng bộ hơn – mà không hề nhận ra rằng điều đó rốt cuộc là vô nghĩa. Mạng người có gây nổi một ấn tượng nào với chính quyền không? Có đánh thức nổi đám đông đang ngủ vùi không? Cái chết có đem đổi lấy công lí được không? Chẳng lẽ chỉ những ai sẵn sàng hi sinh tính mạng mới có quyền bàn về công lí chăng? Người ta trách các sinh viên là chỉ đầy lòng dũng cảm và nhiệt huyết mà không đủ lí trí. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi cô Sài Linh, lãnh tụ đứng đầu phong trào sinh viên, sau này thoát được ra nước ngoài tị nạn, phát biếu: “Trên Quảng trường Thiên An Môn khi đó, quan trọng nhất là đức hi sinh và lòng dũng cảm chứ không phải đầu óc và lí trí. Chúng tôi là những anh hùng của phong trào dân chủ 1989.”

Từ trên bốn thập kỉ nay Trung Quốc không hề có kinh nghiệm gì với dân chủ. Hàng ngày chúng ta chỉ trải qua và chứng kiến những tranh giành và thủ đoạn tàn bạo của hệ thống chuyên chế. Khi tham gia một cuộc cách mạng, chẳng hạn như Cách mạng Văn hóa, chúng ta lập tức thấy mình là những nhà cách mạng vĩ đại nhất. Khi gia nhập phong trào dân chủ, chúng ta thấy mình dân chủ hơn người. Chúng ta tuyệt thực cho dân chủ. Chúng ta hi sinh cho dân chủ. Vì thế chúng ta đinh ninh rằng mọi hành động của mình đều bắt nguồn từ công lí cao nhất, rằng tiếng nói của mình là chân lí duy nhất, rằng mình sở hữu quyền lực tuyệt đối. Như thế, chân lí trở nên tuyệt đối, công lí trở nên tùy tiện và dẫn đến cưỡng bức, còn dân chủ thì trở thành một đặc quyền. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành một phòng thí nghiệm thử chân lí, thử độ cứng của bản lĩnh và độ sâu của ý thức về phẩm giá. Nó cũng đã biến thành nơi mà người ta vừa dấn thân cho công lí, vừa thực thi quyền lực. Không có mặt ở đó, không đến đó để bày tỏ con người mình, là chống lại dân chủ và chống lại công lí, là hèn nhát. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành hòn đá thử lửa. “Tôi đã có mặt ở đó”, “Tôi cũng từng đến đó”, những câu nói ấy đã được coi là chứng chỉ của ý thức dân chủ và lương tri xã hội.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta không cần hợp tác, chúng ta tùy ý kết bè kéo cánh, chúng ta lập ra các tổ chức, chúng ta cử người lãnh đạo, chúng ta lập các hội công nhân và sinh viên tự quản, chúng ta tuyệt thực, chúng ta tổ chức các nhóm tranh luận, các nhóm trí thức, phóng viên, cảm tử quân, chí nguyện quân và hướng đạo sinh. Không ai chịu nghe ai, chẳng người nào chịu dưới trướng người nào.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta căm thù Đảng Cộng sản tột độ và lên án Đảng bằng những bộ quần áo đẫm máu trên thân thể chúng ta. Chúng ta nghiến răng chửi kẻ khác, chúng ta thỏa sức bôi nhọ, chúng ta cho phép mình nói những điều như: chúng tao sẽ bắn vỡ sọ mày, chúng tao sẽ bỏ mày vào vạc chiên, chúng tao sẽ chôn sống mày. Chúng ta cho phép mình chửi rủa và thậm chí hành hung những kẻ không đi cùng chúng ta. Chúng ta cho phép mình thanh toán ân oán giang hồ cá nhân, nhân danh công lí.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta ngang nhiên truyền bá những điều bịa đặt, chúng ta phao tin vịt giữa thanh thiên bạch nhật. Ai phản bác thì chúng ta khăng khăng rằng mình có quyền làm như thế hoặc tìm cách đánh lận rẻ tiền. Chúng ta cho phép mình phao lên rằng Đặng Tiểu Bình đã chết, Lý Bằng đã bỏ trốn, Dương Thượng Côn đã bị đánh đổ, Triệu Tử Dương đã được khôi phục danh dự, Vạn Lý đã thành lập một nội các mới ở Canada. Quảng trường Thiên An Môn, biểu tượng của phong trào dân chủ, biến thành một lò chế tin đồn, càng ngày càng tung ra nhiều điều dối trá. Một số người tham gia sự kiện ngày 4 tháng Sáu sau này thoát được ra nước ngoài thì đảo lộn tình tiết, thêu dệt tin đồn và dùng miệng mà phun ngập máu ra Quảng trường. Để có lợi cho bản thân, họ cố ý phóng đại tội ác và sự tàn bạo của Đảng Cộng sản. Báo chí quốc tế vì thế mà bị xỏ mũi.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta chỉ cho riêng mình quyền tự do ngôn luận và cấm người khác được hưởng quyền ấy. Chúng ta cũng hành xử hệt như Mao Trạch Đông và không dung thứ một chính kiến nào khác. Hệt như đám tay sai của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng ta cũng kiểm duyệt những hình ảnh không hợp ý ta do phóng viên chụp được, chúng ta cũng tịch thu phim và đập nát máy ảnh. Để chính quyền hết cớ đàn áp, chúng ta đã nộp cho công an ba thanh niên Hồ Nam, là những người đã phun mầu lên chân dung Mao, để rồi họ bị kết án 15, 18 và 20 năm đọa đày trong ngục tối.

“Công lí của phong trào dân chủ” đã trở thành một hăm dọa, hễ ai có chính kiến khác là bị gây áp lực và đành câm miệng. Cuộc tuyệt thực đã phong các sinh viên lên hàng những vị thánh bất khả xâm phạm của cách mạng. Vì họ sẵn sàng hi sinh mạng sống, nên chẳng ai dám hé răng phê bình họ nữa. Vậy là các “anh hùng” thì tắt công tắc lí trí, những người còn lại thì lặng im.

Những điều vừa trình bày có thể giải thích, vì sao một công lí trên giấy thì được săn lùng cuồng nhiệt, còn công lí tỉnh táo của hiện thực thì bị gạt ra ngoài.

Nguồn: Dịch theo bản tiếng Đức trong Bei Ling, Der Freiheit geopfert, Riva, München 2011

Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra

Người Buôn Gió – Giữa bao làn đạn?

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Việt Nam on 2013/01/14 at 06:07

Từ khi công an tỉnh Nghệ An chuyển giao tôi cho phía Hà Nội, cuộc hỏi cung diễn ra gay gắt hơn nhiều lần trước đây. Bỗng nhiên sau khi cặm cụi miệt mài đối phó với từng câu hỏi, một hơi thuốc lá làm tôi chợt nhận ra trọng tâm của các câu hỏi dẫn để xoáy vào vấn đề gì.

Tôi có phải là đảng viên đảng Việt Tân không?

Câu hỏi này không phải hôm nay, khi nhà chức trách thấy tôi đi vào Vinh, nơi đang diễn ra phiên toà của mười mấy thanh niên mà nhà cầm quyền kêu tội của họ là tham gia Canh Tân Cách Mạng Đảng gọi tắt là Việt Tân. Câu hỏi này được đặt ra từ lâu lắm rồi.

Với các bạn đọc, những người tôi tôn trọng nhất, tôi xin trả lời trước sau như một. Tôi không phải là đảng viên của bất kỳ đảng phái nào. Với phía nhà chức trách thì cứ để họ tìm hiểu, phía những người được gọi là “nhà đấu tranh dân chủ xịn” khác thì cứ để họ tung tin lờ mờ.

Tôi chơi với những người bạn tốt, họ có thể là đảng viên đảng Cộng Sản hoặc có thể là đảng viên đảng Việt Tân (mà thực sự tôi cũng không rõ họ có đúng là đảng viên Việt Tân hay không, vì họ chưa bao giờ nói với tôi, chỉ thấy khi nhà cầm quyền bắt họ đem ra xét xử thì trong cáo trạng nói thế). Tôi chả ác cảm với bất kỳ đảng phái nào hết. Cũng như không ác cảm với tôn giáo nào hết.

Nhưng khi tôi phải đối phó những câu hỏi nghi vấn tôi có phải là đảng viên đảng Việt Tân hay không.? Thì dư luận từ một số nhà “đấu tranh dân chủ” đưa nghi vấn tôi là đặc tình của an ninh Việt Nam. Điều đáng nói chính những nhà “dân chủ” này tạo ra dư luận tôi là Việt Tân để an ninh Việt Nam điều tra. Trong khi tôi chật vật với cơ quan an ninh điều tra về chuyện đó, thì bên ngoài họ đưa tiếp tin tôi là đặc tình của nhà cầm quyền.

Cánh cửa nhà tù bỗng rộng mở, tôi nhìn thấy nó đã hé ra. Không phải vì tôi có tội, mà vì dư luận để tạo rằng tôi có tội, đã được tạo ra từ cả hai bên là nhà cầm quyền và những nhà “đấu tranh dân chủ quốc nội”. Chỉ cần dư luận dấy lên nghi ngờ, số phận tôi sẽ được định đoạt.

Những nhà “đấu tranh dân chủ” không muốn thiên hạ nhìn họ ngồi ở salon trong khi tôi lặn lội khắp những điểm nóng bỏng. Như thế chả mấy chốc tôi được dành nhiều thiện cảm của đám đông hơn họ. Bởi thế họ phải làm gì đó để tôi không thể ngược xuôi đến nơi như thế. Và điều tốt nhất để giải thích cho dư luận việc tôi có mặt mọi nơi mà vẫn vẹn toàn (không bị bắt tù) thì chỉ là người của phía an ninh.

Những nhà chức trách thì cũng quá mệt mỏi với việc chỗ nào tôi cũng có mặt từ Tôn Giáo, biểu tình NoU, dân oan, dân chủ, dân quyền.. Và.chuyên án nào cũng phải kết thúc, chả thể cứ kéo dài năm này qua năm khác mãi được. Chưa kể ai tôi cũng quen, từ Nam ra Bắc, từ Đông sang Tây, ai thì thằng Hiếu Gió cũng quen, cũng chuyện, cũng đi cùng.

Tình cảnh của tôi chỉ có một con đường.

Không giao du, không gặp ai, không đến chỗ nào có sự kiện.

Chỉ có thế tôi mới chứng minh tôi không phải là đặc tình, không phải là đảng viên của đảng phái nào. Và hơn hết chỉ có thế tôi mới an toàn về thân thể cũng như danh dự.

Rất buồn là nhiều người anh em của tôi đã phải trong chốn lao tù, còn tôi thì giã từ như vậy. Nhưng tôi tin rằng Pau Lê Sơn, Nguyễn Văn Cương, Tạ Phong Tần, Điếu Cày,Cù Huy Hà Vũ… không hề trách cứ tôi, bởi tôi sống trọn vẹn nghĩa tình trong khả năng mà tôi có thể có.

Tôi cũng không oán trách gì những nhà “đấu tranh dân chủ” đang ngồi trong bóng tối tìm cách khoét mâu thuẫn giữa tôi và những người bạn của mình. Hoặc tìm cách tạo dư luận xấu cho tôi để thiên hạ nghi ngờ, xa lánh. Chính trị là cuộc chơi cần nhiều thủ đoạn, mọi mưu toan đều phải có. Ngàn xưa đến nay thiên hạ đều làm thế, chả có gì là lạ.

Từ một con ngõ bụi bặm, trong một kiếp đời lưu manh, giang hồ. Tôi chơi một cuộc chơi đấu tranh với điều bất công trên đất nước này, đầy nguy hiểm và thiệt thòi. Đến nay không bị xử án tù đã là một điều thành công. Thành công nhất là sự vẹn toàn của mình không phải trả giá bằng khai báo về một người nào khác. Không phản trắc, không trở cờ, không bán anh em, bằng hữu… để được tiền tài, danh vọng hay sự an toàn của mình.

Giờ tôi chỉ có ước mơ, thanh thản viết những mẩu chuyện, tản văn về cuộc sống. Hàng chiều đi đón con, đi chợ, nấu cơm.

Thật buồn là tôi có bản lĩnh chấp nhận tù đày, đối mặt với hiểm nguy. Nhưng tôi không đủ độ trì để đối diện với những lời xuyên tạc của những người mà họ vẫn rêu rao rằng họ đấu tranh cho chính nghĩa. Ai cũng khó vẹn toàn, tôi chỉ là một cá nhân nhỏ bé. Chẳng mơ ước công hầu, khanh tước, chả mơ đến giấc mộng quan trường hay những điều lớn lao mình sẽ làm nên trong cuộc đời này.

Nhưng đừng ai nghĩ rằng tôi đang suy sụp, sợ hãi để dồn những đòn tấn công cuối cùng để toan tính rằng tôi có thể thoả hiệp, đầu hàng mong đổi lấy sự an toàn. Điều đó sẽ không bao giờ có, dù tôi có bị thế nào đi chăng nữa.

Nguồn: Người Buôn Gió

Người Buôn Gió – Vinh thành ký (phần 3)

In Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2013/01/12 at 09:22

Thượng tá Đồng là người hỏi cung tôi. Mọi chuyện xoay quanh chúng tôi từ đâu đến,giờ nào, đi mấy người, mục đích gì. 

Sau đó đến chuyện đêm hôm qua đến lúc bắt chúng tôi về.

Tôi trình bày đầy đủ, họ hỏi về vụ clip tung lên mạng đoạn họ gọi là đoàn công tác đang làm nhiệm vụ. Tôi nói không biết ai quay, ai tung. Họ hỏi quen ai ở Vinh, tôi cũng chẳng quen ai.

Chả mấy chốc đến trưa, thượng tá Duệ đứng giữa sân gọi tôi đi ăn cơm cùng ông. Khi chúng tôi ra sân thì đoàn xe đặc chủng chở phạm nhân đang ở giữa trại. Đáng phải ngăn tôi vào phòng, thì rất đông công an vây quanh xe không cho phạm nhân xuống, dù cửa xe đã mở, họ chờ tôi chậm rãi đi qua. Công an cũng không thúc tôi đi nhanh, họ cũng đứng kiên nhẫn như sẵn sàng cứ đợi như thế đến khi nào tôi đi qua xe tù , mặc dù tôi cố tình đi chậm để chờ đợi nhìn thấy các phạm nhân, nhưng hàng chục người công an đứng khoan thai như thể muốn nói là biết tỏng ý đồ của tôi và họ không hề sốt ruột cái chuyện tôi lần khần . 

Thời gian ngưng đọng, tất cả im lặng khi tôi đi qua cửa xe chở phạm nhân.

Tôi nhìn lên xe chỉ thấy một cô gái rất xinh, trắng trẻo  , đeo kinh trắng mặt bình thản lơ đãng nhìn xuống khuôn viên sân công an TP Vinh, nét mặt cô không hề lo sợ hay sốt ruột gì. Tôi nghĩ cô ấy là nữ cảnh sát mặc thường phục, nhưng tôi cố nghĩ thêm thì nhớ ra cô ấy là một trong mười mấy người bị đưa ra xét xử vì đã gặp hình ảnh của cô ấy trên những thông báo.

Lần đầu tiên dù qua nhiều va vấp, quan sát  tôi không phân biệt được giữa công an và phạm nhân. Bởi vì thái độ người con gái đó quá đĩnh đạc, tự chủ và tự nhiên quá thể. Một người con gái đôi mươi ngồi trong xe phạm nhân, qua ô cửa sổ mà như một cô gái đang ngồi ở cửa sổ lớp học hay cửa sổ quán cà fe. À chính xác là quán cà fe đợi bạn đến, đúng rồi, y như thế mới khiến tôi phải nhầm lẫn, bất ngờ. Hình ảnh cô gái khắc sâu ám ảnh tôi vô cùng, nhưng tôi còn phải suy nghĩ về chuyện đang diễn ra với mình lúc này.

Tôi đi cùng thượng tá Duệ và thượng tá Đồng vào phòng ăn của CATP Vinh, mỗi bàn 6 người, tôi thấy Dũng và Thắng mỗi người một bàn ăn chung với các công an khác. Tôi hỏi thêm thức ăn, một thượng uý đứng dậy ra khu bếp hỏi mua. Hoá ra ở đây ăn theo tiêu chuẩn chung 15 nghìn một suất, còn ai ăn thêm thì mua. Mấy người công an ngồi ăn cùng nói ở đây còn ăn tốt hơn chỗ họ. Tôi nhìn quanh phòng ăn chật kín công an, an ninh đang ngồi ăn. Hôm nay ở đây nhiều vậy vì chắc tại họ đến tập trung bảo vệ phiên toà mà nhà nước gọi là xét xử công khai, cấm dân chúng tụ tập đông người theo nghị định 38 CP.

Ăn trưa xong, uống nước và ngồi nghỉ. Lúc hơn 1 giờ đoàn xe chở phạm nhân chuẩn bị đi. Một cô cảnh sát, một cô an ninh rất chuyên nghiệp họ đứng che luôn cửa khiến tôi không nhìn được ra ngoài. Nhưng tình cờ tôi thấy Lê Văn Sơn đi qua thoáng 1 giây đồng hồ giữa khe hở giữa hai cô gái công an, nó cứng cáp hơn lúc ở bên ngoài, ánh mắt nó nhìn rất kiên định không hề tỏ vẻ lo lắng, sợ hãi.

Chúng tôi nghỉ trưa, đến chiều họ vào hỏi cung qua quýt lại sự việc rồi đưa ra ba cái túi có khoá. Họ bảo chúng tôi bỏ cả túi chúng tôi vào túi đó, rồi khoá lại. Họ cầm chìa khoá còn chúng tôi cầm túi. Đến lúc đoàn xe chở phạm nhân xử sắp về thì họ đưa chúng tôi ra xe inova chở đến khách sạn sáng họ bắt chúng tôi. Cho chúng tôi ngồi ở quầy lễ tân uống nước, ở đây tôi thanh toán tiền khách sạn rồi cứ ngồi đó chơi. Đến 6 giờ chiều trước xe chở chúng tôi lại công an TP Vinh ăn cơm chiều.

Cơm xong chúng tôi nằm xem ti vi, ông Dũng thì cãi bem bẻm gì phòng bên. Tôi và Thắng nằm xem ti vi, đến 20 giờ thì công an bảo chúng tôi dậy đi làm việc.

Tôi đang ở phòng đầu, bỗng bị đưa đi đến phòng cuối. Tôi biết họ không muốn tôi nhìn thấy cái gì đó, có thể là họ để Thắng và Dũng đi đâu, như về trước chẳng hạn.

Tôi làm việc với một đại uý, anh ta hỏi tôi nói không làm việc. Anh ta hỏi lý do, tôi bảo anh ghi vào biên bản là tôi phản đối hỏi cung ban đêm, vì theo luật trừ trường hợp bắt khẩn cấp, bắt quả tang, cần khai thác đồng phạm, không thể trì hoãn …mới được phép hỏi cung ban đêm. Anh ta ngớ người rồi nói tôi cứ trả lời rồi anh ta ghi vào, tôi bảo anh ta ghi vào rồi tôi trả lời. Nói đi nói lại rồi chả làm gì hết. Tôi hỏi anh ta biển tên đâu, anh ta bảo chưa được cấp. Tôi bảo đại uý mà chưa được cấp biển tên là thế nào. Anh ta bỏ tôi đấy đi ra ngoài.

Lúc sau khoảng hơn 9 giờ tối, anh ta vào đọc cho tôi biên bản cảnh cáo về tội cản trở chống đối người thi hành công vụ lúc đêm qua trong khách sạn. Tôi bảo sao không lập biên bản lúc đêm mà sáng nay về đây hỏi mãi giờ mới lập, vì tôi thấy lúc đó công an mới đưa nhân viên khách sạn đến làm biên bản. Anh ta bảo tôi có ký biên bản không, tôi bảo có nhưng cho tôi xin một tờ. Một đại uý an ninh quát tôi là 

– anh cứ ký rồi có một bản.

Tôi cười nhạt, bảo có một bản trong túi mới ký

Đại uý an ninh quát.

– Không ký thì thôi, cần gì.

Tôi bảo không cần thì thôi không ký, đó là các ông không cần tôi ký chứ không phải tôi không ký nhé.

Đại uý cảnh sát đi, đại uý an ninh ở lại hằm hè. Hắn nằm trên giường xem ti vi, tôi lên giường khác nằm hắn không cho. Hắn bắt tôi ngồi ghế, tôi kéo ba cái ghế ra nằm. Hình như hắn biết về tôi , nên tỏ vẻ khó chịu. Không như bao nhiêu công an từ hôm qua đến giờ họ đối xử với tôi rất đúng mực , chu đáo. Giờ trong phòng có hắn và một thượng uý an ninh trông tôi, thượng uý thấy việc bắt tôi ngồi cũng không cần thiết, nên chính anh ta kéo thêm ghế giúp để tôi nằm.

Có tiêng xe ô tô, tiếng người đi, tiếng bảo lỡ tàu. Tôi đoán Thắng và Dũng được chở ra ga.

Còn tôi ở lại, tôi thở phào, dù sao hai bạn tôi cũng đã ra. Còn tôi thì không dễ thế được, dù có thả họ cũng chả thế thả tôi ở sân ga. Tôi đâu có số  được nhởn nhơ như thế, tôi đã được thả từ TP HCM khi họ đưa tôi tận cửa phòng bay, ở Lạng Sơn khi tạm thu hết đồ đạc chỉ đủ tiền về, ở Đà Nẵng khi sát giờ bay…đời nào họ thả tôi ở Vinh khi mà ngày mai phiên toà vẫn còn tiếp tục.

Tôi nằm hút thuốc, điếu thuốc cuối cùng, tôi nhờ an ninh mua. Nhưng thực sự đã 12 giờ đêm, không thể mua được nữa. Tôi đang nằm thì có người vào chụp ảnh tôi đang nằm, tôi bật dậy anh ta nói sắp chuyển giao tôi, nên chụp ảnh chứng tỏ tôi còn khoẻ, tôi ngồi ngay ngắn cho anh ta chụp bằng điện thoại. Sau đó người vào làm giấy bàn giao với nhau là tôi ở trạng thái khoẻ khoắn. Thượng tá Duệ cầm ca táp, áo khoác đứng bên ngoài. Tôi hỏi ông là di lý phải không, ông ta cười bảo làm gì có, chú cứ đoán mò. Tôi nói không di lý sao anh cầm hồ sơ của em ở tay kia. Ông ta gật đầu xác nhận.

6 người công an đưa tôi lên xe, có hai vị thượng tá, một là phó phòng PC44 tỉnh Nghệ An, một là đội trưởng đội điều tra và các cảnh sát Nghệ An và một an ninh Hà Nội. Xe đi đường mòn 1b, đến Thanh Hoá dừng lại ăn cháo gà, tôi ăn uống đi lại ở quán ăn bình thường, người trong quán đông nhưng nhìn chắc họ chả thể nghĩ tôi là người bị 6 người kia áp giải.

Tôi lúc ngủ say, lúc tỉnh, đến 7 giờ sáng xe vào Hà Đông.

Rẽ vào trụ sở cơ quan an ninh Hà Nội, một nơi tôi quen đến mức có lần tôi đi vào mà chả bị gác cổng hỏi giấy tờ. Khi đưa tôi vào trong , những người công an tỉnh Nghệ An ngạc nhiên thấy an ninh Hà Nội hỏi tôi như người quen, và tôi đi đến phòng phải làm việc không cần ai dẫn trước. Họ thốt lên.

– Ôi hoá ra Hiếu làm việc đây nhiều quá rồi à.?

Hai bên làm thủ tục bàn giao, lúc đang giao giấy tờ tôi nhìn thấy tờ công văn của công an tỉnh Nghệ An, lời lẽ rất quyết liệt đối với tôi như cáo trạng. Tôi hỏi thượng tá Duệ.

– Ai soạn công văn này thế anh.?

Ông ta nói không biết.

Nhưng có một điều tôi biết, là người mà lần thứ hai trong đêm vào khách sạn đòi khám đồ, rồi ra lệnh cấm chúng tôi đi là đại tá Hồ Xuân Hoà, trưởng công an TP Vinh. Bảo sao lúc đó những người đi theo ông ta chỉ nhìn tôi như muốn nói đừng nói gì lúc đó.

Thượng tá Duệ ra về, ông bảo tôi khi nào vào Vinh thì gọi cho ông làm bữa nhậu. Tôi bảo khi nào tôi tù ở trại Thanh Chương, Kỳ Sơn thuộc Nghệ An ông có đi qua vào thăm tôi là được. Thượng tá Duệ cười bảo tôi cố nghĩ sao mà làm ăn nuôi con, đừng cứ nghĩ chuyện làm gì khiến phải vào tù tiêu cực thế, phải nghĩ cái tích cực chứ. Tôi bắt tay cảm ơn lời khuyên của ông nói.

– Vâng cám ơn anh, em vẫn luôn nghĩ về điều tích cực.

Lúc này là sáng ngày 9/1/2013, những người công an Vinh rời đi, để tôi lại với cơ quan an ninh điều tra Hà Nội.

Nguồn: Người Buôn Gió

Dương Thu Hương – Lột trần chế độ CS

In Liên Kết, Tạp văn on 2012/04/05 at 23:16

Nhà văn Dương Thu Hương

Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.

Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy.

Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.

Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. ..

Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?

Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.

Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.

Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha.

Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”.

Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam, nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.

Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.

Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.

Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:

Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . . ”

Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.

Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”?

Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.

Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợ hãi.

Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.

Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó.

Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.

Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.

Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.

Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân nhưcác mợ Tầu.

Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nối tiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.

Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?

Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu để cắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”?

Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.

Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!”

Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?

Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộchính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng?

Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước.

Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.

1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị như vậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.

2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.

Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình.

Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.

Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họlà những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.

Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.

Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh.

Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nhà”

Dẫn hổ về thịt dê nhà

Tại sao lại là hổ và dê?

Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn.

Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽ thấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó.

Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên?

Bauxite ư? Trò lừa đảo!

Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam, tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thếgiới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?

Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.

Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.

Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . . ”

Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà. Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.

Bác chúng em

Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”.

Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.

Nhưng ông Lê Giản đã chết và “Người công an nhân dân”cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.

Tôi chứng minh:

Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.

Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.

Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn!

Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sựchuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân.

Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân.

Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó?

Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉđã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và “Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.

Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.

Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?

Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họ không dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác?

Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứhai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.

Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu.

Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân.

Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họ cũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.

Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ.

Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản đểchủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.

Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (nhưông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .

Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.

Dân Việt :

Ai là dân Việt?

Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia?

Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?

Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.

Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua? Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được.

Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.

Đó là một nhận định sáng suốt.

Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ xâm chiếm Việt Nam. Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.

Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.

Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?

Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam, phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương?

Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tựnguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?

Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.

Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.

Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam. Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “Nam tiến”!

Nam tiến, nam tiến và nam tiến!

Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.

Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta.

Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu?

Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.

Để giữ được non sông, để có thểlà người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, mộtchính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờ Thăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.

Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.

Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.

Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉluỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộlông của chính nó mà thôi.

Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.

Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại sốphận bi thảm của An Dương Vương.

Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội khôngđứng lên cùng với họ.

Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?

DƯƠNG THU HƯƠNG

———————————————–

Tổng Thống Nga Vladimir Putin:

Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu.

Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim.

Tổng Thống Nga Boris Yeltsin :

Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó.

Bí Thư Đảng Cộng Sản Nam Tư Milovan Djilas:

20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim,

40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản, là không có cái đầu.

Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mr. Mikhail Gorbachev:

Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản.

Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.

Nguồn: Đàn Chim Việt

Phó thường dân (14): Mèo – thỏ

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn, Thế giới, Việt Nam on 2012/01/20 at 11:36

 
Còn hai ngày nữa là tới Tết nhưng chẳng thấy hơi hướng mùa Xuân đâu ở cao nguyên tình xanh vùng Tây bắc Hoa-kỳ này. Dự báo thời tiết cho mùa đông lạnh cóng (hiệu ứng niña) năm nay làm ai cũng phải cười khỉnh vì qua lễ Tạ ơn và Noel nhưng chẳng thấy tuyết đâu. Đùng một cái. Trời đổ tuyết liên tục không dứt vào mấy ngày cận Tết. Trường học, công sở thì đóng cửa. Chẳng ma nào dám lái xe trên đường phố đang đóng băng dầy trơn trợt. Phó thường dân cũng đành ru rú ở trong nhà. Muốn phát sốt (cabin fever)!

Thấy tuyết đổ nhiều chẳng ưa gì nhưng trong lòng phó thường dân tui cũng một phát thở phào mừng thầm. Chỉ gần hai tháng trước phó thường dân đã thay cái mái nhà lợp gỗ tuyết tùng (cedar shake) đã cũ kỷ, cong chênh và chớm mục bằng lớp mái loại tổng hợp (composite shake). Bây giờ thì yên tâm ăn Tết chẳng phải âu lo thấp thỏm nơm nớp sợ nhà bị dột.

“Vô tư” nên phó thường dân tui ngô nghê ngoảnh lại năm mèo đang đỏng đảnh bước qua trước mặt. Chợt nhận ra con mèo (Việt Nam) thì khác xa với con thỏ (Trung Quốc) trong số 12 con giáp à nha.

Theo sinh vật học và chủng loại thì mèo, cọp (tiger, cougar), beo, báo, sơn miêu (lynx) và cả sư tử cũng đều nằm trong họ nhà mèo (cat). Hóa ra chú mèo ta tuy nhỏ nhưng được lấy tên làm cả họ mèo. Tuy ở ta thì mèo được gọi là tiểu hổ (theo TQ?) nhưng ở Tây thì cọp, beo, và ngay cả sư tử lại được ví chung/gọn là mèo lớn (big cat).

Thỏ thì chắc ai cũng biết rồi, nhát như thỏ. Thỏ được mỗi biệt tài là chạy nhanh nhưng vốn ỷ y, nhởn nhơ nên tới đích còn sau cả con rùa. Còn mèo thì có tính độc lập, tự chủ, không dễ bị sai khiến, không theo bầy đàn. Nói theo người Mỹ, trong thành ngữ “việc khó như chăn mèo” (It’s like herding cats) là đủ phô trương trích dụng bản tính độc lập của loài mèo.

Những ngày cuối năm Mão này khi phó thường dân ngó lại cũng thấy y chang nhiều sự kiện biến chuyển dạng theo tính khí của con mèo hơn là con thỏ.

Trước hết phải kể đến những biến động lịch sử trên thế giới vào đầu năm như Cách mạng hoa nhài, mùa Xuân Ả-rập ở Tunisia, Ai-cập, Libya, và láng giềng Miến Điện. Các diễn biến này hiện lộ mồn một đầy tính “mèo”: độc lập, tự chủ. Người dân ở các nước độc tài kể trên không còn chịu sống trong áp bức, thiếu tự do mãi. Họ quyết định vùng lên để giành sống đời tự chủ bất chấp hiểm nguy chưa đo lường trước được.

Riêng tại Việt Nam ta thì người dân dù biết mình thấp cổ bé miệng chỉ là con giun, cái kiến trong một thể chế độc tài nhưng cũng đã mức mực thể hiện lòng dạ can đảm. Họ quá bức xúc trước các hành vi bá quyền Trung Quốc xâm lấm biển Đông, bách hại ngư dân đã xuống đường hàng loạt vào mùa hè để biểu tình phản đối chính quyền TQ. Khẩu hiệu Hoàng Sa-Trường Sa-Việt Nam đã được trương cao và tung hô công khai trên đường phố Sài Gòn và Hà Nội. Người biểu tình kiên quyết lên tiếng hơn 11 lần bất chấp đàn áp, cưỡng chế, hành hung, giam cầm của nhà cầm quyền đảng CSVN. Họ phản kháng dù biết mối đe dọa tù đày[1]. Vì chỉ có những con bò thì mới chịu bị “chăn dắt” chứ mèo cũng không chịu, nói chi là con người[2].

Đảo mắt dần tới cái tháng cuối năm con mèo này thì có ai không biết tới biến cố sôi sục Đoàn văn Vươn[3] chống trả lực lượng cưỡng chế của quan/quân huyện Tiến Lãng. Những người dân lành chỉ biết cặm cụi lo làm lụng kiếm ăn một khi bị dồn vào chốn đường cùng cũng không thể làm gì khác hơn là vùng dậy dù rằng họ đã bị “tuyên huấn”, “định hướng”, “chỉ đạo” khá thuần (Đỗ Hữu Ca, Giám đốc Công an Hải Phòng trong khẩu khí khinh bôi “Từ sau hòa bình đến nay, người dân Tiên Lãng khá thuần nên huyện nghĩ rằng không có việc chống đối như thế[4]). Họ vươn lên như “những con giun xéo mãi cũng quằn” kháng cự lại một thể chế với guồng máy và hệ thống đầy tính bạo động. Làm sao mà buông xuôi, không chống trả cái tập đoàn tội phạm cơ “cấu” trong đảng CSVN nối kết, giật dây xã hội đen cướp của, cướp đất mà họ đã gầy dựng bằng mồ hôi và máu thịt cho được?  Những chuyện động trời ở Tiên Lãng[5] bị lộ hàng này phải chăng chỉ là mảng băng nổi của bao chuyện thường ngày ở huyện.

À mà chút xíu nữa là quên vì bực giận. Phó thường dân nãy giờ chỉ nói về mèo mà hổng nhắc gì tới thỏ thì thiệt là không công bằng. Các chuyển động rần rần hàng ngày ở bộ sậu (BCT) đảng CSVN có khác gì hiện tượng “thỏ” với hành xử nhút nhát, luồn cúi, khiếp nhược với Trung Quốc. Những thỏ thò thụt, thin thít với “tàu lạ” mà người dân nhận rõ bản chất của họ là “Hèn với giặc ác với dân”[6]. Những kẻ mà Hoàng Sa-Trường Sa, bô-xít Tây nguyên, khoán hộ trăm năm rừng đầu nguồn, tham nhũng PMU, Vinashin, chứng khoán đứt phanh[7], doanh nghiệp phá sản cùng với lạm phát[8] và giá cả tăng phi mã tất tật đều là “chuyện nhỏ như con thỏ”.

Phó thường dân nói đến đây chợt nhớ một chuyện nhỏ như con thỏ khác ở nước Mẽo này xin kể bà con nghe chơi nha. Đó là chuyện triệu hồi chức vụ (recall election) các viên chức nhà nước dù được dân cử trước đó nhưng nay cử tri không còn tín nhiệm mặc dù nhiệm kỳ chưa quá đát. Điều kiện thực hiện tiến trình triệu hồi này khác nhau tùy theo địa phương nhưng thể thức chung tương đối đơn giản. Chỉ cần thu thập đủ mức số chữ ký của cử tri trong địa hạt bầu cử (Thống đốc và dân biểu tiểu bang, Thị trưởng và Nghị viên thành phố, v.v…) là có được sự thay đổi. Nghĩa là chuyện nhỏ như con thỏ.

Một ví dụ điển hình nhất là vụ triệu hồi chức vụ Thống đốc Tiểu bang Wisconsin, ông Scott Walker. Nguyên nhân chỉ vì ông ta thông qua đạo luật hủy bỏ quyền thương lượng tập thể (collective bargaining rights) của nhân viên nhà nước (public employees). Các hiệp hội lao động cùng với dân chúng, cử tri ở Wisconsin kết hợp tổ chức cuộc triệu hồi. Họ vận động qua truyền thanh, truyền hình, các trang mạng và facebook[9] với kết quả là đã thu thập trên 1 triệu chữ ký, gần gấp đôi con số đòi hỏi cần thiết. (Nghĩ tới đây lại nhớ và thương ba em Đỗ thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương, và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng tranh đấu cho người lao động mà phải bị tù đày khổ sai đang bị hành hạ từng ngày.)

Riêng trong năm 2011 đã có 150 cuộc triệu hồi chức vụ ở Hoa-kỳ, kết quả là một nửa số 75 dân cử bị truất chức và 9 vị khác từ chức (cho đỡ mất mặt) trước mối đe dọa bị triệu hồi[10]. Cơ chế bầu cử dân chủ và pháp luật ở xứ tự do thì như thế chứ còn ở đất nước độc tài, độc đảng của Đảng CSVN thì dù dân chúng có chán ngán, bất tín nhiệm muốn truất phế thì cũng đành bótay.com. Chỉ có những quả bom Đoàn Văn Vươn[11] đầu ngọn sóng nổ tung mới đổ sập được bức tường nhà tù nô lệ.

Hồn thiêng ngàn năm Thăng Long vẫn còn trên đất Việt. Lòng dân Việt Nam đang trong vận hội mới muốn khai phóng vươn dậy tháo gỡ gông cùm độc tài chuyên chế.
 
© 2012 Vietsoul:21
 
[Loạt bài Phó Thường Dân: (1) Anh tám hồ hởi (2) Nôị-thực-dân (3) Sợ (4) Kỳ đà – cắc ké – kỳ nhông (5) Con dân – con cá – cò mồi (6) Bình vôi – bái vật – bà đồng (7) (Vô) Hậu  (8) Gió mưa là chuyện của trời …  (9) Vô liêm sỉ – man rợ (10) Phế-anh-hùng (11) Luật Lệ(nh) … (12) Nhà em có nuôi một con két … (13) Cái nhà là nhà của ta …  (15) phố vẫy (16) Mít tờ Đàm và Bác Hồ (17) Nín thở qua cầu (18) Bán Thân – Bán Thận – Bán Thần (19) Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm]


[10] Recall Election, wikipedia

Tự Tình Mẹ

In Cộng Đồng, Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2011/12/30 at 10:14

Đêm mẹ nghe tiếng ca bi hùng thay tiếng kinh cầu “Mẹ Việt Nam ơi chúng con vẫn còn đây”[1] của những đứa con trong tù đày và lưu lạc mà lòng mẹ chĩu đau.

Mẹ luôn thức, dõi mắt nhìn đàn con khôn (dại) lớn lên, những đứa con ân tình, những đứa con nghĩa nặng, những đứa con vong ơn, những đứa con bội phản.

Mẹ biết, có những đứa lầm đường quên mẹ chỉ “còn đảng còn mình”. Mẹ biết, có những đứa u mê thờ bình vôi – bái vật – bà đồng[2] “lên đồng tập thể”, rồi xẻo thịt cắt xương dâng cho kẻ lạ. Mẹ biết, có những đứa thế chấp mẹ cho vài trăm triệu đô la. Mẹ biết, có những đứa lo lắng quan tâm từng cơn ho thổ huyết đầu nguồn, từng vết thương lở loét cột sống lưng của mẹ. Mẹ biết, có những đứa phải chịu nhục hình vì mẹ.

Những bài hát các con dành cho mẹ – Ca Dao mẹ, Mẹ Việt Nam ơi, người mẹ Gio Linh, người mẹ Ô Lý, người mẹ Lý Sơn[3] – mẹ nhận lấy nhưng chẳng mong cầu.

Nhưng mẹ xin …

Các con đừng xây dựng tượng đài hão huyền cho mẹ.

Các con đừng đem tên mẹ ra chót lưỡi đầu môi lọc lừa thiên hạ.

Các con đừng bắt mẹ làm anh hùng, đừng bắt mẹ hy sinh mãi mãi.

Các con đừng thở than trách móc với mẹ. Gia tài của mẹ[4] để lại cho con không là “một nước Việt buồn”. Mẹ đâu để lại “một rừng xương khô” hay “một núi đầy mồ”. Mẹ nào sinh ra “một bọn lai căng”, “một lũ bội tình”. Những đứa con của mẹ đầy nhiệt huyết lý tưởng một thời. Những đứa con học thói Mác-Lê, nọc nòi Cộng Sản. Những đứa con vong bản “đem gươm đao về xóm làng”[5] giết chết anh em gieo hận thù đố kỵ.

Mẹ không oán trách các con vì mẹ là mẹ của tất cả các con.

Và mẹ muốn …

Mẹ muốn gì? Tất cả các người mẹ muốn gì?

Muốn các con thương yêu bảo bọc lẫn nhau, những đứa con trái bí trái bầu.

Muốn trẻ thơ không phải chết già. Muốn người già chẳng phải chết non. Muốn không ai chết đời oan ức.

Muốn đứa cày có ruộng, đứa đi biển có ngư trường, đứa làm công có việc, đứa trẻ thơ được học, đứa bệnh hoạn được chăm, đứa cô quạnh được hỏi, đứa đói lạnh được no[6].

Muốn các con nên người. Muốn các con học làm người. Muốn các con được làm người.

Muốn các con sống đời chân thật.

Mẹ có gì để lại cho các con. Không phải là rừng vàng biển bạc hay phù sa bên lở bên bồi. Gia tài của mẹ là các con. Những trí tuệ tài năng con rồng cháu lạc.

Mẹ yêu lắm những đứa con của mẹ. Mẹ nhớ tên từng đứa một, đứa quê đứa tỉnh, đứa gái đứa trai, đứa trẻ đứa già, đứa nghèo đứa giàu, đứa cô thế đứa cường quyền.

Đừng lo gì cho mẹ. Mẹ luôn vẫn còn đây cùng tuế nguyệt, dù bão táp phong ba.

Lo cho người mẹ thở hơi nông cạn chờ con (Paulus Lê)[7] mỏi mòn chờ đợi (Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Tiến Trung). Lo cho người mẹ trông con Tí Hón (Người Buôn Gió). Lo cho người mẹ chưa từng (Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Thanh Nghiên, Tạ Phong Tần, Hồ Thị Bích Khương). Lo cho người mẹ của các con vắng cha (Anh BaSG, Điếu Cày, Cù Huy Hà Vũ, Phạm Minh Hoàng, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vi Đức Hồi, Nguyễn Công Chính). Lo cho người mẹ, vợ và con (Nguyễn Thị Thanh Tuyền, Trịnh Kim Tiến) mãi đi tìm công lý[8]. Lo cho người mẹ, con đi tìm mẹ (Bùi Thị Minh Hằng)[9]. Lo cho những người mẹ có con bỗng nhiên bắt mất[10]. Lo cho những người mẹ mất đất không nhà. Lo cho người mẹ con dâu xứ người (Hàn, Đài) [11]. Lo cho những người mẹ Osin xa nhà. Lo cho người mẹ con đói củ mài. Mẹ đếm kể sao cho hết những đứa con thân yêu của mẹ.

Mẹ nhắc, các con thương yêu bảo bọc lẫn nhau. Các con luôn nhớ đến anh chị em của mình bị bức hại chia lìa. Bao con tin lương tâm[12] vẫn còn chảy đập để động viên tinh thần và chia sẻ đồng tình với các đứa con tù nhân lương tâm của mẹ.

Các con ơi mẹ luôn vẫn còn đây. Các con chỉ có một cuộc đời mỏng manh hữu hạn. Mẹ mong con sống một đời vui tươi, một đời tự chủ, một đời an lạc.

Các con sống đứng thẳng làm người, không cúi lưng nô lệ.

Các con sống chân thật, nói lời ngay thẳng, không uốn lưỡi mua danh, không lọc lừa cầu lợi.

Các con sống xứng đáng làm người.

Mẹ Việt Nam con vẫn còn đây!

© 2011 Vietsoul:21


[1]Mẹ Việt Nam ơi”, Thái Thanh – Nguyễn Ánh  9

[4] “Gia tài của mẹ”, Trịnh Công Sơn

[5]Cơn mê chiều”, Thái Thanh – Nguyễn Minh Khôi

[6] Chuyện chuột & người, Đàn Chim Việt

[12] Con tin lương tâm, Vietsoul21.net

Giờ phẫn nộ!

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn, Việt Nam on 2011/12/03 at 01:10

Giờ phẫn nộ![*]

VietSoul:21

Huỳnh Ngọc Tuấn – Thục Vy – Trọng Hiếu (Nguồn: Dân Làm Báo)

Tôi không còn tin vào mắt mình khi đọc được những giòng tin tức về gia đình họ Huỳnh trên mạng. Một gia đình người Việt Nam cùng quê hương xứ sở mà tôi tuy chưa từng gặp lại có mối đồng cảm và chưa có duyên để tỏ bày. Nhưng tôi vẫn xem là bạn—những người bạn thầm lặng của tôi đã từng bị quấy nhiễu, hành hung và trong giờ phút này bị cô lập, cưỡng bức, cướp bóc tài sản, đánh đập dã man, vu khống, chế tài bằng “luật lệnh”[1] và khủng bố[2].

Tôi phải lên tiếng.

Tôi phải gào thét, căm phẫn cùng các bạn.

Tôi phải tỏ lòng mình cho các bạn biết. Bạn bị cô lập nhưng không bao giờ cô đơn đâu. Vì chúng tôi vẫn bên cạnh bạn.

Họ muốn bịt miệng các bạn. Chúng tôi sẽ lên tiếng.

Họ muốn đày đọa các bạn. Chúng tôi sẽ nâng đỡ và an ủi.

Đúng, cái ác bao giờ cũng đáng sợ, nhưng đáng sợ hơn là sự dửng dưng.[3]

Giờ phút này thì tôi có thể tin gì và làm được những gì?

Tôi tin vào Chúa Giêsu. Tôi tin vào Phật Thích Ca. Hai đấng cách mạng nhân bản cho thế giới trần tục này. Đấng rao giảng bình đẳng, công bằng, bác ái. Đấng rao giảng giải phóng bản ngã, cứu khổ, vị tha.

Tôi tin vào Mahatma Ghandi, Martin Luther King Jr., hai nhà cách mạng bất bạo động, phản kháng các thế lực áp bức, bất công. Cuộc đời họ là thông điệp cho hậu thế.

Tôi tin vào Nguyễn Trãi – Bình Ngô Đại Cáo, Lý Thường Kiệt – Nam Quốc Sơn Hà.

Tôi hoài nghi về các tuyên ngôn và chủ thuyết. Nhưng tôi tin là có những nỗi đau. Tôi tin vào em Kim Tiến, em Thanh Tuyền trong “hành trình đi tìm công lý”[4]. Tôi tin vào cái cảm giác sợ hãi, lòng thương xót và cảm xúc phẫn nộ. Tôi tin vào tấm lòng cô Phương Bích và cô Bùi Hằng.

Tôi tin vào bác Lê Hiền Đức và dân oan An Giang trong nỗi oan khiên mất đất, mất nhà với khẩu hiệu nguệch ngoạc “Bỏ mạng, không bỏ đất”, “Thà chết không bỏ đất”, “Dân tình An Giang, Tức nước vỡ bờ, Vật giá leo thang, Nhân gian khổ ải, Giải tỏa cưỡng chế, Đói nghèo công nô”.

Độc Lập, Tự Do, Nằm co vệ đường

Tôi tin vào linh mục, tu sĩ, và giáo dân Thái Hà đang chịu hành hung, đánh đập, trấn áp, bắt giam khi biểu tình phản đối chính quyền “mượn” và cướp đất nhà thờ.

Tôi tin vào ông Nguyễn Văn Lía, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, sáng lập khối PGHH Truyền Thống, vì đấu tranh đòi hỏi quyền tự do tôn giáo nên đang bị cầm tù, bị ép cung đánh gãy xương sườn, và tin cô con gái Nguyễn Thị Luạ đi thăm nuôi đã phẫn nộ gào thét “xin sự xót thương của mọi người, cứu cha tôi” và chắp hai tay, ngước mặt lên trời van xin “Kính Đức Phật, Đức Thầy và Trời cao xin hãy cứu cha con”[5].

Tôi tin vào những con người của một thời cương quyết nay chai lạnh vì “đã mỏi mòn, cái mỏi mòn của những con người đành nuốt nước mắt vào trong” và cũng có người phải chọn “tự quản thúc mình”[6].

Tôi vẫn còn nghi ngại về những buổi tiệc ê hề rượu bia tràn ly nhưng lại đặt trọn niềm tin với một chút tình chưa cạn trong giờ hoạn nạn.

Tôi chẳng mảy may hoài mộng về cõi vĩnh hằng, chốn niết bàn nhưng tôi tin vào cuộc đời và cuộc sống này.

Tôi tin vào các bạn, những người tử tế, những người biết sợ nhưng vẫn lên tiếng và hành động vì các bạn biết rằng “khi ta câm lặng ta vẫn ôm nỗi sợ”[7]

Tôi tin vào “những điều không thể quên, những sức mạnh tiềm tàng”[8] mà tất cả các bạn đã đặt trọn niềm tin vào. Để phẫn nộ và dấn thân.

© 2011 Vietsoul:21


[*] Indignez Vous! Time for outrage! “There are unbearable things all around us. You have to look for them; search carefully. Open your eyes and you will see. This is what I tell young people: If you spend a little time searching, you will find your reasons to engage. The worst attitude is indifference.” (Hãy phẫn nộ! Đây là lúc nỗi thiên đình! Chung quanh ta đầy rẫy bao điều không thể chịu đựng nổi. Hãy để ý đến các điều ấy, sục sọi cho cẩn thận nhé. Bạn sẽ thấy liền nếu mở mắt ra. Tôi thường khuyên các bạn trẻ như thế này: chỉ cần để tâm một chút thì bạn sẽ tìm ra lý lẽ để dấn thân. Thói dửng dưng là thái độ tồi nhất) ― Stéphan Hessel

[1] Luật Lệnh, Vietsoul21.net

[3] “The world is a dangerous place, not because of those who do evil, but because of those who look on and do nothing.” (Thế gian này là một chốn hiểm nguy, không phải bởi những người gây ra tội ác, nhưng vì những ai người trớ mắt nhìn và không làm gì cả) ― Albert Einstein

“Washing one’s hands of the conflict between the powerful and the powerless means to side with the powerful, not to be neutral.” (Khi phủi tay với những xung đột giữa cường quyền và người cô thế thì đồng nghĩa với chuyện ta đứng về phía kẻ cường quyền, không còn vô thiên vị nữa) ― Paulo Freire

“I swore never to be silent whenever and wherever human beings endure suffering and humiliation. We must always take sides. Neutrality helps the oppressor, never the victim. Silence encourages the tormentor, never the tormented.” (Tôi thề là sẽ không bao giờ câm lặng trong bất cứ lúc nào ở bất cứ nơi nào mà con người bị khổ nạn và sỉ nhục. Chúng ta luôn phải chọn đứng về một phía. Trung lập chỉ giúp kẻ đàn áp, chẳng trợ giúp gì cho nạn nhân. Im lặng chỉ khuyến khích kẻ tra tấn thêm, không hề động viên người bị nhục hình.) ― Elie Wiesel

[4] Hành Trình Đi Tìm Công Lý, Nguyễn Thị Thanh Tuyền – Đàn Chim Việt

[6] Tôi sẽ tự “quản thúc” mình, Đỗ Trung Quân – Dân Luận

[8] The only dream worth having…

“The only dream worth having…
is to dream that you will live while you’re alive and die only when you’re dead…
which means exactly what?’…
To love. To be loved.
To never forget your own insignificance.
To never get used to the unspeakable violence and vulgar disparity of life around you.
To seek joy in the saddest places.
To pursue beauty to its lair.
To never simplify what is complicated or complicate what is simple.
To respect strength, never power.
Above all, to watch.
To try and understand.
To never look away.
And never, never to forget.”

Duy ước mơ đáng có …

Một ước mơ đáng có
là mơ được thực sự sống khi còn và chỉ chết khi lìa đời …
mơ thế để làm gì?! …
Để yêu. Để được yêu.
Để không bao giờ quên mình mỏng manh vô nghĩa.
Để không bao giờ trơ chai với bạo lực vô ngôn và cách biệt thô bỉ trong đời quanh bạn
Để tìm ra niềm vui khi tận cùng trong chốn thảm buồn
Để theo đuổi cái đẹp đến tận cùng hang ổ nó
Để không bao giờ đơn giản hoá những gì phức tạp hay tạo rối rắm cho những giản đơn
Để trân trọng sức mạnh, không nề quyền lực
Và trên hết, dõi nhìn
Để gắng hiểu
Để không bao giờ ngoảnh mặt quay lưng.
Và không bao giờ, không đời nào quên.

Arundhati Roy