vietsoul21

Posts Tagged ‘lãnh đạo’

Huỳnh Thục Vy – Tản mạn về trí thức và thời cuộc

In Cộng Đồng, Chính trị (Politics), Liên Kết, Việt Nam on 2013/01/27 at 09:48

Trước nay, trước mỗi kỳ đại hội đảng CS, thiên hạ hay bàn chuyện ông này, ông kia có tư tưởng cải cách, có khả năng thay đổi thể chế để dân chủ hóa đất nước. Thế rồi hết kỳ này đến kỳ khác đất nước vẫn chìm trong độc tài – đàn áp. Giờ nghĩ lại mới thấy thời cuộc đã làm cho những ưu tư, hy vọng về vận mệnh đất nước vỡ tan.

Cộng đồng yếu đuối mới cần cá nhân anh hùng
Có một thời, giới trí thức trong nước đã hy vọng và hết lời ca ngợi Võ Văn Kiệt như là một chính khách có tư tưởng tiến bộ và gần đây nhất, một số người đặt hy vọng vào Nguyễn Bá Thanh. Chưa nói đến thiện chí thực sự của họ, một cá nhân và một số ít người trong vây cánh của ông ta quả thật quá yếu để tin cậy, bởi không một cá nhân nào trong các chế độ độc tài có khả năng thoát ra khỏi guồng máy cai trị để tiến hành thay đổi thể chế nếu nó đi ngược lại ý chí của tập đoàn (chưa kể đến việc tập đoàn này đang bị khống chế bởi một đàn anh ngoại bang), dù đó là một cựu lãnh đạo hay là một lãnh tụ đương quyền; và càng quá phiêu lưu để giao phó vận mệnh đất nước trong tay một vài người. Bởi con người vốn dĩ không thể tuyệt đối tin cậy, đặc biệt khi họ có quyền lực mà ít chịu trói buộc.

Một “cứu tinh” rồi sẽ trở thành một tên tội đồ nếu xã hội dân sự rã rời. Cái tâm lý sai lầm cố hữu về xã hội và chính trị khiến chúng ta luôn ngộ nhận. Người ta cứ nghĩ mọi thứ có thể giải quyết bằng một đề án chính trị áp đặt từ trên xuống, và mọi đề án chính trị quốc gia có thể được giải quyết với một cá nhân.

Nói đến đây chắc nhiều độc giả liên tưởng đến Gorbachov. Thật ra, trường hợp này không mâu thuẫn với quan điểm của người viết. Tình thế Nga Sô lúc đó buộc đảng CS phải đi đến chỗ sụp đổ. Ông Gorbachov chỉ là người tuyên bố một sự kiện không thể đảo ngược. Cuộc cách mạng Nhung, với sự nổi lên của những người hùng như Gorbachov và Yelsin, đã xảy đến với một nước Nga kiệt quệ sau chiến tranh Lạnh và hầu như không có xã hội dân sự sau thời kỳ CS. Điều đó chỉ mang lại danh tiếng cho các cá nhân này nhưng không đem đến một tương lai đáng mơ ước cho nước Nga. Bởi khi các lực lượng dân sự yếu đuối thì một người hùng có thể mang đất nước ra khỏi, dĩ nhiên có khả năng đưa đất nước trở lại chế độ độc tài. Như chúng ta có thể thấy, một ý chí đầy cảm tính đã khiến Yelsin chọn Putin – một kẻ cực đoan, chống phương Tây – làm người kế tục ông, đã đẩy nước Nga vào một chế độ dân chủ giả hiệu như hôm nay. Người dân Nga chẳng có đóng góp nào cho những cuộc chuyển mình lớn lao của nước họ. Và hậu quả là họ tiếp tục không có tiếng nói đáng kể nào trong các vấn đề đất nước.

Đồng ý, cá nhân vượt trội luôn có vai trò không thể chối cãi trong phong trào xã hội vì khả năng gắn kết những sức mạnh sẵn có và phát huy hiệu quả vận động xã hội, như trong bài viết gần đây nhất của tôi về người lãnh đạo. Nhưng đặt tất cả mọi hy vọng và toàn toàn dựa giẫm vào một cá nhân không phải là tâm lý của một dân tộc trưởng thành. Bởi một dân tộc trưởng thành cần một lãnh đạo chứ không cần lãnh tụ.

Chính trị là tất cả?
Không thể phủ nhận chính trị là quan trọng, bởi nếu nó không quan trọng thì nó đã không tồn tại từ khi con người được tổ chức thành xã hội cho tới bây giờ. Nó quan trọng đến nỗi mọi nỗ lực gạt bỏ quyền lực chính trị (nhà nước) ra khỏi xã hội dù chỉ trên lý thuyết (chủ nghĩa Marx) cuối cùng đã đưa đến một “siêu nhà nước” trong thực tế. Thế nhưng, từ khi nhà nước xuất hiện, chúng ta nhận thấy toàn khối xã hội cơ bản được chia thành hai phía: người được/bị cai trị và người cai trị, xã hội và nhà nước, dân sự và chính trị. Hệ thống chính trị giúp xã hội được điều hành một cách văn minh, quy củ và giữ chức năng trọng tài cho mọi tranh chấp xã hội. Nhưng để giữ cho xã hội hài hòa, cân bằng, đảm bảo tự do cá nhân, tất yếu không thể để nhà nước lấn át xã hội.

Thế nhưng, từ lịch sử bị cai trị chuyên quyền, người Việt Nam coi chính trị là cái gì đó vượt lên trên xã hội, tách khỏi xã hội và độc tôn. Nhưng, chính trị chỉ là một trong nhiều mảng hoạt động trong xã hội con người và tương tác trực tiếp với những cái còn lại. Nhà nước là một hệ thống nên/phải bị kiểm soát bởi sức mạnh dân sự. Khi nhận thức được rằng, ngoài quyền lực chính trị còn có quyền lực kinh tế và quyền lực dân sự, chúng ta sẽ không quá đề cao chính trị và coi nó là đáp án cho mọi vấn đề.

Gần đây, tôi được hỏi rằng: khi tôi lên tiếng đấu tranh, tôi có mong cầu một vị trí chính trị trong tương lai? Dù vô tình hay hữu ý, cách suy nghĩ này xuất phát từ tâm lý coi quyền lực chính trị là độc tôn. Vấn đề không phải ở chỗ người ta cho rằng: những người dấn thân và lên tiếng nên có vị trí xứng đáng; mà vì người ta quá đề cao quyền lực chính trị. Tất nhiên những người can đảm và có thực tài nên được trọng dụng, nhưng tại sao không phải ở chỗ nào khác mà là trong hệ thống chính trị? Chỉ có nắm quyền lực chính trị mới là chỗ đứng thích đáng cho người tài đức? Không nơi đâu khác ngoài chính trị, nơi mà một cá nhân có thể trở nên hữu ích và tỏa sáng?

Đến đây tôi nhớ đến một nhân vật rất nổi bật trong phong trào Otpor ở Serbia – Srdja Popovic. Sau khi chế độ Slobodan Milosevic sụp đổ, anh ta được bầu vào Quốc hội Serbia. Nhưng sau đó ít lâu, anh ta rời khỏi chính trường và thành lập một tổ chức phi chính phủ ở Belgrade. Sự ra đi ấy có thể được suy đoán với nhiều lý do nhưng không thể bỏ qua một lý do quan trọng – đó là sự trưởng thành trong tâm lý và nhận thức của giới trẻ Serbia: chính trị không là tất cả!

Vì coi chính trị là tối cao và là cứu cánh, người Việt Nam vẫn chưa thể tìm thấy sức mạnh thực sự ở chính mình và ở cộng đồng quanh mình khi giải quyết các vấn đề quốc gia, mà luôn trông ngóng vào một chính khách “vĩ đại” làm thay tất cả cho mình. Nhưng làm sao cá nhân nào đó lại thực hiện tốt khát vọng của chúng ta hơn là chính chúng ta? Thực ra, tình trạng chính trị chỉ là biểu hiện của năng lực dân sự. Không thể có chính trị tốt nếu quần chúng chỉ là những con người bạc nhược.

Quả thật, không phải ngoài chính trị ra, không còn “đất dụng võ” cho những người tài năng mà vì chúng ta chưa mở rộng tâm trí và cả tâm lý để nhìn thấy một nơi như thế. Hình như đối với chúng ta, tất cả những gì đáng vinh danh và mong ước đều nằm ở chính trị bởi từ trước đến nay, chúng ta chưa hề được sống trong một không gian khác, một không gian đối trọng với quyền lực chính trị. Chính nơi ấy, một cá nhân không chỉ tỏa sáng mà còn tỏa sáng độc lập, không bị không chế và cũng không cần dựa giẫm vào hào quang chính trị.

Sức mạnh dân sự yếu kém, trí thức bị khinh miệt
Tâm lý dựa giẫm và giao phó đưa đến hai hệ lụy nghiêm trọng. Thứ nhất, sự tuân phục và phụ thuộc vào quyền lực chính trị khiến cho cả xã hội, đặc biệt là giới trí thức, không nhận thức được vị trí quan trọng của mình trong việc giải quyết các vấn nạn xã hội. Điều này tạo điều kiện cho chế độ độc tài cai trị tùy tiện và vô thời hạn. Thứ hai, nếu một nguyên nhân nào đó khiến chế độ độc tài sụp đổ, thì sự yếu kém của các thế lực dân sự sẽ khiến đất nước gặp rất nhiều trở ngại trong việc xây dựng dân chủ, mà trường hợp xấu nhất có thể xảy ra là, sự xuất hiện một chế độ độc tài mới.

Người dân ít học lơ là chuyện xã hội thì đã rõ; giới trung lưu trí thức thì làm ngơ, hoặc có quan tâm nhưng im tiếng, hoặc dựa vào quyền lực chính trị để tiến thân. Sự dựa giẫm vào chính trị tỏ ra đặc biệt nguy hiểm, khi địa vị và sự vinh quang của giới trí thức trong xã hội được ban phát bởi Nhà nước thì không thể nào có suy nghĩ và hành động độc lập hay đối kháng. Cuộc cách mạng Pháp đẫm máu đã không mang lại tự do thực sự cho người Pháp cũng bởi trước đó, giới trung lưu và quý tộc Pháp chỉ là một tập đoàn người tập trung quanh vương miện vua Pháp, ca ngợi và hưởng lợi từ đó. Hiện nay, Việt Nam không có giới trung lưu theo đúng tinh thần: mãnh mẽ, độc lập và có năng lực đối kháng với nhà nước.

Không ngẫu nhiên và vô lý khi cả Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và những người CS nói chung khinh miệt trí thức. Bởi vì đối với họ, trí thức vừa có quá nhiều chữ để có thể bị lừa gạt lâu dài, nhưng cũng quá nhu nhược để là những đối thủ xứng tầm với họ.Tại sao trung lưu trí thức trong các xã hội tự do là lực lượng tiên phong cho các giá trị dân chủ tiến bộ, còn thân phận trí thức Việt Nam lại rẻ rúng như thế?

Phải chăng khi còn mang tâm lý xem chính trị là tất cả, các công dân chưa thể thoát khỏi thân phận thần dân? Phải chăng khi trí thức chưa nhận thấy vai trò to lớn của mình là đảm đương và lãnh đạo khối dân sự, kiềm chế khối chính trị; mà chỉ bám vào chính trị để “vinh thân phì gia” thì chính trị sẽ còn kiêu ngạo và mặc sức tung hoành? Phải chăng khi khối hoạt động dân sự vẫn yếu đuối, và trí thức chỉ là người đi bên lề mọi quyết định quan trọng của quốc gia; thì trí thức – trung lưu vẫn bị coi thường và con đường đi đến Tự do của dân tộc sẽ vô vàn khó khăn?

Thay lời kết
Đất nước đang đối mặt với những bế tắc và khủng hoảng. Kinh tế đang kiệt quệ. Đảng CSVN đang mạnh tay đàn áp đối kháng để giành ưu thế thời gian cho một cuộc đào thoát lớn của họ. Vận mệnh nước nhà sẽ giao vào tay ai nếu không đặt lên vai mọi tầng lớp dân chúng, đặc biệt là tầng lớp trung lưu trí thức? Đây chính là cơ hội để giới trí thức dành lại trọng trách, khẳng định vai trò và mở rộng tầm vóc của mình. Vị trí cao quý nhất cho những người trí thức không nhất thiết phải là trong một thế lực chính trị mà là trong xã hội dân sự đang nhen nhóm hình thành. Người trí thức phải nhận lấy vai trò và vinh quang của một thế lực dân sự có khả năng kìm chế quyền lực chính trị. Còn gì quan trọng và vinh dự hơn vai trò kiểm soát nhà nước? Còn gì nổi bật hơn vị thế “lương đống” cho toàn khối dân sự? Còn gì đáng mong ước hơn tư cách độc lập và không bị ràng buộc bởi bất cứ thế lực chính trị nào để chỉ hành động vì quyền lợi quốc gia?

Để rồi từ đó, bắt đầu một giai đoạn lịch sử hoàn toàn mới cho Việt Nam, trí thức giờ đây không còn chịu thân phận bề tôi mà mạnh mẽ sánh ngang với quyền lực chính trị, để thực hiện những nhiệm vụ mà lịch sử và quốc gia giao phó. Trút bỏ được sự ràng buộc với chính trị và tâm lý e dè đối với quyền lực chính trị, tầng lớp trí thức Việt Nam sẽ là Hercules, có sức mạnh nâng đỡ cả dân tộc.

Huỳnh Thục Vy
Buôn Hồ ngày 23 tháng 1 năm 2013

Nguồn: blog Jane Hoang

Chúng ta bị công lí của chính mình đè bẹp

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Thế giới on 2013/01/21 at 09:39

Lưu Hiểu Ba

Phạm Thị Hoài dịch

Tiểu luận sau đây của Lưu Hiểu Ba được in trên tờ Central Daily News ở Đài Loan ngày 5-6-1993, nhân 4 năm Sự kiện Thiên An Môn. Lời phê bình các khuyết điểm của giới trí thức phản kháng Trung Quốc và phong trào sinh viên năm 1989 xuất phát từ trải nghiệm trực tiếp của ông. Khi phong trào nổ ra, ông đã bỏ dở chương trình nghiên cứu và giảng dạy của mình tại một số trường đại học Hoa Kỳ, mua một tấm vé không khứ hồi bay về Bắc Kinh ngày 27-4-1989 để hỗ trợ các sinh viên của mình trên Quảng trường. Tại đây, ông hướng dẫn và tranh luận với các sinh viên về phương pháp và mục đích đấu tranh, tham gia những cuộc đàm phán giữa sinh viên và chính quyền, và tham gia tuyệt thực ở giai đoạn cuối từ ngày 2-6. Ông bị coi là một trong những kẻ “giật dây” của phong trào và bị kết án tù lần thứ nhất, đến đầu năm 1991. Song ngay cả với tiểu sử ấy, các ý kiến phê phán của ông vẫn gây sóng gió trong phong trào dân chủ Trung Quốc, nhất là với những gia đình nạn nhân của vụ thảm sát 4-6.

Giới thiệu tiểu luận này trong bản dịch tiếng Việt, tôi tin rằng nó sẽ là một tham khảo bổ ích cho phong trào dân chủ Việt Nam.

Người dịch

_______________

Giới trí thức phản kháng và các lãnh tụ sinh viên Trung Quốc, những người tự thấy mình là anh hùng và chiến sĩ dân chủ, đều chỉ biết đến dân chủ từ sách vở. Họ không có khái niệm gì về việc thực hành nền dân chủ đó. Họ không hề biết phải xây dựng nền dân chủ như một hệ thống chính trị và một tòa nhà pháp lí như thế nào và phải đưa những nội dung gì vào đó. Trước khi phong trào dân chủ năm 1989 nổ ra, nhà vật lí thiên văn, giáo sư Phương Lệ Chi, được coi là một Sakharov của Trung Quốc, đã bỏ qua cơ hội bảo vệ quyền con người theo đúng luật pháp. Ông được Tổng thống Bush mời gặp nhưng bị chính quyền cản trở. Và ông đã lặng lẽ chấp nhận, không một lời phản đối. Cả đến khi phong trào dân chủ bùng nổ, ông Lưu Tân Nhạn, nhà bất đồng chính kiến được coi là “lương tâm xã hội của Trung Hoa”, vẫn đề cao chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội. Vẫn giữ nguyên lòng trung thành từng mất rồi lại được khôi phục của mình. Còn phong trào hiện tại thì được lãnh đạo bởi những người thậm chí không hiểu cả những nguyên lí cơ bản của dân chủ. Như thế, làm sao mà thành công được? Tình trạng đó chỉ có thể sinh ra những than vãn hời hợt về hệ tư tưởng.

Khi cảm giác về nghĩa vụ gánh vác một sứ mệnh lịch sử bị đẩy lên thái quá, các sinh viên đã đánh mất khả năng tỉnh táo để tự nhận định và khả năng tự kiềm chế để đạt hiệu quả cao. Họ không biết rằng những đôi vai mảnh khảnh của họ không gánh nổi một định mệnh nặng trĩu như vậy. Họ không cưỡng được sự cám dỗ rằng mình có thể đem lại công lí và tưởng rằng cứ lấy sinh mạng ra trả giá thì chính quyền sẽ buộc phải nhượng bộ hơn – mà không hề nhận ra rằng điều đó rốt cuộc là vô nghĩa. Mạng người có gây nổi một ấn tượng nào với chính quyền không? Có đánh thức nổi đám đông đang ngủ vùi không? Cái chết có đem đổi lấy công lí được không? Chẳng lẽ chỉ những ai sẵn sàng hi sinh tính mạng mới có quyền bàn về công lí chăng? Người ta trách các sinh viên là chỉ đầy lòng dũng cảm và nhiệt huyết mà không đủ lí trí. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi cô Sài Linh, lãnh tụ đứng đầu phong trào sinh viên, sau này thoát được ra nước ngoài tị nạn, phát biếu: “Trên Quảng trường Thiên An Môn khi đó, quan trọng nhất là đức hi sinh và lòng dũng cảm chứ không phải đầu óc và lí trí. Chúng tôi là những anh hùng của phong trào dân chủ 1989.”

Từ trên bốn thập kỉ nay Trung Quốc không hề có kinh nghiệm gì với dân chủ. Hàng ngày chúng ta chỉ trải qua và chứng kiến những tranh giành và thủ đoạn tàn bạo của hệ thống chuyên chế. Khi tham gia một cuộc cách mạng, chẳng hạn như Cách mạng Văn hóa, chúng ta lập tức thấy mình là những nhà cách mạng vĩ đại nhất. Khi gia nhập phong trào dân chủ, chúng ta thấy mình dân chủ hơn người. Chúng ta tuyệt thực cho dân chủ. Chúng ta hi sinh cho dân chủ. Vì thế chúng ta đinh ninh rằng mọi hành động của mình đều bắt nguồn từ công lí cao nhất, rằng tiếng nói của mình là chân lí duy nhất, rằng mình sở hữu quyền lực tuyệt đối. Như thế, chân lí trở nên tuyệt đối, công lí trở nên tùy tiện và dẫn đến cưỡng bức, còn dân chủ thì trở thành một đặc quyền. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành một phòng thí nghiệm thử chân lí, thử độ cứng của bản lĩnh và độ sâu của ý thức về phẩm giá. Nó cũng đã biến thành nơi mà người ta vừa dấn thân cho công lí, vừa thực thi quyền lực. Không có mặt ở đó, không đến đó để bày tỏ con người mình, là chống lại dân chủ và chống lại công lí, là hèn nhát. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành hòn đá thử lửa. “Tôi đã có mặt ở đó”, “Tôi cũng từng đến đó”, những câu nói ấy đã được coi là chứng chỉ của ý thức dân chủ và lương tri xã hội.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta không cần hợp tác, chúng ta tùy ý kết bè kéo cánh, chúng ta lập ra các tổ chức, chúng ta cử người lãnh đạo, chúng ta lập các hội công nhân và sinh viên tự quản, chúng ta tuyệt thực, chúng ta tổ chức các nhóm tranh luận, các nhóm trí thức, phóng viên, cảm tử quân, chí nguyện quân và hướng đạo sinh. Không ai chịu nghe ai, chẳng người nào chịu dưới trướng người nào.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta căm thù Đảng Cộng sản tột độ và lên án Đảng bằng những bộ quần áo đẫm máu trên thân thể chúng ta. Chúng ta nghiến răng chửi kẻ khác, chúng ta thỏa sức bôi nhọ, chúng ta cho phép mình nói những điều như: chúng tao sẽ bắn vỡ sọ mày, chúng tao sẽ bỏ mày vào vạc chiên, chúng tao sẽ chôn sống mày. Chúng ta cho phép mình chửi rủa và thậm chí hành hung những kẻ không đi cùng chúng ta. Chúng ta cho phép mình thanh toán ân oán giang hồ cá nhân, nhân danh công lí.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta ngang nhiên truyền bá những điều bịa đặt, chúng ta phao tin vịt giữa thanh thiên bạch nhật. Ai phản bác thì chúng ta khăng khăng rằng mình có quyền làm như thế hoặc tìm cách đánh lận rẻ tiền. Chúng ta cho phép mình phao lên rằng Đặng Tiểu Bình đã chết, Lý Bằng đã bỏ trốn, Dương Thượng Côn đã bị đánh đổ, Triệu Tử Dương đã được khôi phục danh dự, Vạn Lý đã thành lập một nội các mới ở Canada. Quảng trường Thiên An Môn, biểu tượng của phong trào dân chủ, biến thành một lò chế tin đồn, càng ngày càng tung ra nhiều điều dối trá. Một số người tham gia sự kiện ngày 4 tháng Sáu sau này thoát được ra nước ngoài thì đảo lộn tình tiết, thêu dệt tin đồn và dùng miệng mà phun ngập máu ra Quảng trường. Để có lợi cho bản thân, họ cố ý phóng đại tội ác và sự tàn bạo của Đảng Cộng sản. Báo chí quốc tế vì thế mà bị xỏ mũi.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta chỉ cho riêng mình quyền tự do ngôn luận và cấm người khác được hưởng quyền ấy. Chúng ta cũng hành xử hệt như Mao Trạch Đông và không dung thứ một chính kiến nào khác. Hệt như đám tay sai của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng ta cũng kiểm duyệt những hình ảnh không hợp ý ta do phóng viên chụp được, chúng ta cũng tịch thu phim và đập nát máy ảnh. Để chính quyền hết cớ đàn áp, chúng ta đã nộp cho công an ba thanh niên Hồ Nam, là những người đã phun mầu lên chân dung Mao, để rồi họ bị kết án 15, 18 và 20 năm đọa đày trong ngục tối.

“Công lí của phong trào dân chủ” đã trở thành một hăm dọa, hễ ai có chính kiến khác là bị gây áp lực và đành câm miệng. Cuộc tuyệt thực đã phong các sinh viên lên hàng những vị thánh bất khả xâm phạm của cách mạng. Vì họ sẵn sàng hi sinh mạng sống, nên chẳng ai dám hé răng phê bình họ nữa. Vậy là các “anh hùng” thì tắt công tắc lí trí, những người còn lại thì lặng im.

Những điều vừa trình bày có thể giải thích, vì sao một công lí trên giấy thì được săn lùng cuồng nhiệt, còn công lí tỉnh táo của hiện thực thì bị gạt ra ngoài.

Nguồn: Dịch theo bản tiếng Đức trong Bei Ling, Der Freiheit geopfert, Riva, München 2011

Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra