vietsoul21

Posts Tagged ‘chủ quyền’

Trần Trung Đạo – Niềm vui Phương Uyên, hành trang cho chặng đường tranh đấu mới

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn on 2013/08/21 at 12:19

Chưa bao giờ trong suốt 38 năm, bản án  chế độ CS dành cho một cô bé không chỉ làm lương tâm cả dân tộc thức  dậy, đứng lên mà cả nhiều nơi trên thế giới bất bình, phẫn nộ như bản án  Phương Uyên. Ba tháng qua, từ trong nước đến ngoài nước, từ nguyên thủ  quốc gia Mỹ cho đến lãnh đạo các nước Bắc Âu, hai chữ Phương Uyên rất  khó phát âm theo đúng tiếng Việt đã trở thành một điều kiện cho các quan  hệ ngoại giao song phương và quốc tế.

 

Khi đứng trước tòa sơ thẩm giữa tháng Năm, thay vì dùng những câu nặng  tính cách đấu tranh chính trị như “tôi quyết liệt phản đối” hay “tôi  cương quyết không chấp nhận” bản án, em chỉ nói “tôi không cam tâm”: “Tôi  là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những  người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước.  Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì  thật sự tôi không cam tâm”. Bốn chữ “tôi không cam tâm” nhỏ nhẹ như có chút gì trách móc những người ở tuổi ông bà đang ngồi xử  em là tiếng nói chân thành, tha thiết nhưng không thiếu phần cương  quyết.

Những ai ngạc nhiên vì bản án sáu năm tù ở quá khắc nghiệt lần trước  cũng có thể ngạc nhiên vì bản án “ba năm tù treo” lần này. Thật ra, dưới  chế độ CS chẳng có bản án tù chính trị nào dựa trên lý lẽ, bằng chứng,  truy tố, phân tích hay biện hộ, tất cả đều phản ảnh của chính sách và  chính sách lại luôn thay đổi tùy theo nhu cầu chính trị trong từng giai  đoạn.

Điều 88 Bộ Luật Hình Sự của chế độ CSVN hiện nay không phải là một bộ  luật do một cơ quan lập pháp độc lập nào làm ra mà chỉ là một văn bản  của chế độ CSVN tự dựng lên và dùng làm thước đo để trừng trị những ai  đi ngược lại quyền lợi của lãnh đạo đảng CS. Trên thế giới, ngoại trừ  Trung Quốc, Bắc Hàn, Cu Ba và Việt Nam, không có quốc gia nào mà việc  phê bình chỉ trích nhà nước và các cấp lãnh đạo nhà nước lại có thể bị  phạt tù đến 12 năm như “Bộ Luật Hình Sự” kỳ quái của chế độ CSVN quy  định.

“Bộ Luật Hình Sự” của Liên Xô trước đây là một ví dụ. Tháng Sáu năm  1934, để chuẩn bị cho cuộc thanh trừng đẫm máu sắp bắt đầu, Stalin đã  thêm vào điều 58 bộ Luật Hình Sự Liên Xô được ban hành vào năm 1927  những khoản quy định các bản án dành cho các tướng lãnh quân đội và ngay  sau đó chiếu vào các khoản này để xử bắn bốn trong số năm đô đốc, ba  trong số năm thống chế, mười ba trong số mười lăm tướng lãnh ba sao và  bốn sao, năm mươi trong số năm mươi bảy tư lịnh binh đoàn và toàn bộ  mười sáu chính ủy cao cấp thuộc các binh chủng của Hồng Quân Liên Xô.

Theo tường thuật của các bloggers cũng như của đài RFA, cuộc tranh luận  giữa Phương Uyên và các ông bà ngồi ghế quan tòa “như một cuộc chiến rất  căng giữa một bên là chế độc độc tài, toàn trị, vô cảm với đầy đủ  phương tiện đàn áp người dân với một bên là phe dân chủ “liễu yếu mong  manh” nhưng bất khuất” và cũng tại đó em đã phát biểu câu nói lịch sử “Tôi  không cần giảm án. Tôi chỉ cần tòa xử đúng người đúng tội. Tôi cho rằng  chống đảng CS không phải chống phá đất nước, dân tộc”. Tuy  nhiên, không phải vì Phương Uyên đã chiến thắng trong “cuộc chiến rất  căng” về lý luận và đã khuất phục được bà Thẩm phán Trương Thị Minh Thơ  chủ tọa phiên tòa phúc thẩm hôm 16 tháng Tám vừa qua và bà đuối lý đành  kết án Phương Uyên “tù treo” thay vì “tù ở”. Không phải vậy đâu. Quyết  định “tù treo” là quyết định từ trung ương đảng. Giả thiết, trong phiên  tòa phúc thẩm dù Phương Uyên có hô to “Đả đảo Cộng Sản” như Cha Nguyễn  Văn Lý đã hô hay bỗng dưng em đổi tính gọi ba đời nội ngoại của bà  Trương Thị Minh Thơ ra chửi bằng ngôn ngữ hàng tôm hàng cá nhất, bà Thơ  vẫn phải cắn răng tuyên bố Phương Uyên được hưởng “án treo” theo đúng  chỉ thị đã nhận từ trước.

Lý do trực tiếp của việc em được thả đã được nhiều người phân tích trong  đó có áp lực của chính quyền Barack Obama và quốc tế, chiều hướng mới  về chính sách đối ngoại của lãnh đạo CSVN, một cách tỏ thái độ đối với  Trung Quốc v.v… Tất cả đều có thể đúng tùy theo góc độ phân tích của  vấn đề nhưng như kẻ viết bài này đã viết trong bài trước Áp lực nào buộc CSVN phải thả Phương Uyên?, chính tinh thần đấu tranh bền bỉ, đa dạng, tích cực và nhiệt tình  của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thế hệ Việt Nam trong nước và ngoài nước  là nguyên nhân sâu xa và sức đẫy chủ động đã giúp Phương Uyên được trở  về trong vòng tay của mẹ. Tận dụng ưu thế của cộng đồng người Việt tại  Mỹ và các quốc gia dân chủ từ châu Úc đến châu Âu là một bằng chứng  thành công hùng hồn. Sức mạnh tổng hợp của các thành phần dân tộc và xu  hướng phát triển văn minh của thời đại là nền tảng của cuộc đấu vì tự do  dân chủ trước đây, hôm nay và tái thiết đất nước sau này.

Việc vận dụng các điều kiện chính trị thế giới cũng như trong vùng Đông  Nam Á của các tổ chức người Việt không có liên hệ trực tiếp hay gián  tiếp gì với việc “lệ thuộc vào ngoại bang” và cũng chẳng “theo tây theo  Mỹ” nào cả. Phân tích một cách dễ hiểu, không có cuộc vận động liên tục  của nhiều tổ chức đấu tranh người Việt không một Tổng thống Barack Obama  nào, không một dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ  nào, không một Dân biểu Loretta Sanchez thuộc đảng Dân Chủ nào, không  một Dân biểu Chris Smith thuộc đảng Cộng Hòa nào, không một bà Catherine  Ashton, phụ trách đối ngoại của Quốc Hội Châu Âu nào, không một dân  biểu Quốc hội Châu Âu nào trong số 34 vị ký tên trong thư phản đối tình  trạng nhân quyền tồi tệ tại Việt Nam biết đến Phương Uyên.

Áp lực từ các lãnh đạo quốc tế có thể là những giọt nước làm tràn chiếc  ly nhưng ly nước lớn kia vốn đã chứa đựng bao giọt mồ hôi và nước mắt  trong gian khổ đấu tranh của nhiều lớp người Việt Nam đi trước. Bức  tường chuyên chính không sụp bằng những cơn bão Đông Âu nhưng sẽ sụp từ  những giọt nước nhỏ xuống một cách âm thầm và kiên nhẫn như thế.

Qua đoạn phim ngắn phỏng vấn Phương Uyên  của hệ thống truyền hình Dòng Chúa Cứu Thế chúng ta thấy em rất chững  chạc và trưởng thành về nhận thức dù tuổi còn nhỏ và quá trình giáo dục  bị đóng khung trong hệ thống giáo dục tuyên truyền nhồi sọ khi em phát  biểu đừng đánh đồng giữa đảng CS và tổ quốc Việt Nam vì “Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng hơn rất là nhiều”.

Vâng, đúng thế.

“Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng hơn rất là nhiều” vì trên  mảnh đất này vẫn còn ghi lại dấu chân của những người để lưng trần, tóc  cắt ngắn, đóng khố che thân, đầu đội mũ lông chim Hồng, tay ẵm đàn con  Lạc Việt, vượt bao nhiêu núi rừng ghềnh thác trong cuộc Nam tiến đầy  gian nan nhưng vô cùng hiển hách, từ vùng Nam Hoa di dân xuống lưu vực  sông Hồng 48 thế kỷ trước.

“Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng hơn rất là nhiều” vì trong  lúc bao nhiêu bộ tộc Bách Việt khác đã hoàn toàn bị tiêu diệt hay đồng  hóa vào những tỉnh, những huyện như Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân  Nam, Phúc Kiến của Trung Quốc ngày nay, giòng giống Lạc Việt qua bao độ  thăng trầm, vẫn tồn tại và trưởng thành nên quốc gia Việt Nam độc lập và  tự chủ.

“Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng hơn rất là nhiều” vì trên  mảnh đất này tên của một con sông, một ngọn núi, một thôn làng, khi được  nhắc đến có thể làm người Việt Nam phải rơi nước mắt. Những Phong Hóa,  Nam Quan, Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Thiên Trường, Diên Hồng, Chi  Lăng, Lam Sơn, Đống Đa v.v… không phải chỉ đơn giản là những địa danh,  mà hơn thế nữa, còn là là nơi giữ gìn anh linh hùng khí của dân tộc.  Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao,  mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở sông Bạch  Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích của  bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương của  tổ tiên đã đổ xuống trước áp lực của các triều đại Bắc phương xâm lấn.

“Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng hơn rất là nhiều” như  Phương Uyên nói không thể đem so với một đảng chính trị chỉ mới nhập từ  Nga năm 1930 và đã bị đào thải trên phạm vi thế giới. Thế nhưng, không  chỉ trong giới sinh viên học sinh mà ngay cả trong nhiều người lớn,  trong tầng lớp “tiến sĩ”, “thạc sĩ”, “nhà văn”, “nhà thơ”, “trí thức xã  hội chủ nghĩa” không phải ai cũng thấy được sự khác biệt đó như em. Mà  có thấy được cũng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt” chứ không đủ can đảm gióng  lên tiếng nói như em.

Dù sao Phương Uyên đã về quê với mẹ. Chuyến xe lửa đã rời nhà ga. Những  ngày nóng bỏng của mùa hè 2013 đang qua và tiếng cười rạng rỡ như tia  nắng cuối ngày vừa tắt. Mai đây em sẽ đối diện với thực tế mới và những  chọn lựa mới trong đời. Những ai hy vọng em sẽ làm những việc vượt quá  khả năng của em có thể sẽ thất vọng. Phương Uyên chỉ mới 21 tuổi. Em có  nhận thức rất sáng so với các bạn cùng thế hệ nhưng để bay cao, để đi xa  cần có thêm nhiều phương tiện. Em có thể sẽ trở lại trường học, có thể  chọn một việc để làm, có thể sẽ tiếp tục cùng các bạn tiếp tục hành  trình phục vụ đất nước, chống tham nhũng, chống độc tài, chống “Tàu  khựa” bằng một hình thức khác. Làm gì đi nữa, một chương lớn trong cuộc  đời em vừa mới lật qua. Phương Uyên không còn là một Phương Uyên mang ít  nhiều huyền bí và hấp lực trong tù mà là cô bé 21 tuổi ngoài xã hội với  cuộc sống bình thường.

Nhưng đất nước thì không. Đất nước như một giòng sông vẫn còn đang trôi  qua những ghềnh đá cheo leo, những núi non ngăn cách suốt ba mươi tám  năm đầy chịu đựng. Trên quê hương Việt Nam, hàng trăm người Việt Nam vẫn  còn đang bị tù đày cũng chỉ vì cùng quan niệm như em “Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng hơn rất là nhiều”.

Hôm nay, điều kiện thật sự của Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, người anh cả của  phong trào tuổi trẻ chống Trung Quốc âm mưu rước đuốc qua Hoàng Sa nhân  dịp Thế Vận Hội mùa hè tại Bắc Kinh, vẫn chưa ai biết rõ một cách chính  xác ra sao. Từ 2008 đến nay, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải là tù nhân chính  trị chịu đựng nhiều truy bức và đày ải nhất. Trong lúc sự kính trọng  dành cho hàng trăm nhà dân chủ đang bị tù dày bao giờ cũng sâu đậm, sự  quan tâm của đồng bào trong và ngoài nước dành cho anh Điếu Cày Nguyễn  Văn Hải đã vượt lên trên. Tình cảm đồng bào dành cho anh giống như tình  cảm của anh dành cho đất nước, đơn sơ, thiêng liêng và trong sáng.

Điếu Cày không phải là nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị, nhà cách mạng,  nhà lý thuyết, nhà báo, nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp. Không phải là nhà  nào cả. Mơ ước của anh là được cầm máy ảnh đi thăm ba miền đất nước để  ghi lại những vẻ đẹp nên thơ và hùng vĩ của quê hương. Anh đã đi nhưng  vết thương Hoàng Sa và Trường Sa buộc anh dừng lại. Quê hương không còn  đủ nghĩa khi hai quần đảo thiêng liêng và chiến lược rơi vào tay Trung  Quốc. Từ đó, anh dấn thân trên con đường gai góc, con đường nhiều triệu  người khác không dám đi: con đường chống Trung Quốc xâm lăng. Và cũng từ  đó, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, cái tên một lần nghe rất lạ đã trở thành  quen thuộc, gần gũi, thân thương trong mọi gia đình Việt Nam, đặc biệt  trong lòng tuổi trẻ Việt Nam.

Anh Điếu Cày Nguyễn Văn Hải không phải là Nelson Mandela của Nam Phi,  Aung San Suu Ky của Miến Điện, Vaclav Havel của Tiệp. Anh là một người  Việt Nam bình thường, đơn giản và hiền hòa như hạt gạo, củ sắn, củ  khoai, con mắm, ngọn rau nhưng anh cũng vô cùng cao quý vì đã nói lên  khát vọng độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Ngoài Điếu Cày, còn nhiều anh chị em khác nữa, những Đinh Nguyên Kha,  Việt Khang, Nguyễn Hữu Cầu, Trần Huỳnh Duy Thức, Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân  Diệu, Lê Văn Sơn, Phan Thanh Hải, Mai Thị Dung, Nguyễn Công Chính, Phạm  Thị Phượng, Tạ Phong Tần, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn  Đặng Minh Mẫn, Trần Thị Thúy, Phùng Lâm, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy  Chương, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Tiến Trung, Phạm Văn Thông, Nguyễn Ngọc  Cường, Đinh Đăng Định, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Vũ Anh Bình, Nguyễn Kim  Nhàn, Hồ Thị Bích Khương, Lê Thanh Tùng, Phan Ngọc Tuấn, Vi Đức Hồi,  Nguyễn Văn Lía, Võ Minh Trí, Lê Quốc Quân v.v… tất cả vẫn còn ở trong  tù.

Chúng ta nên làm gì cho họ đây. Không có con đường nào khác ngoài việc  tiếp tục cuộc đấu tranh như đã từng tranh đấu cho Phương Uyên. Nếu có  khác chăng, chặng đường mới có nhiều hy vọng và thuận lợi hơn. Cuộc vận  động dân chủ ngày nay không phải là môi trường chỉ dành riêng cho những  người ly khai khỏi mọi ràng buộc, dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho lý  tưởng tự do dân tộc theo kiểu “gát bút nghiên lên đường tranh đấu” như  cha ông chúng ta đã làm ngày trước mà diễn ra ở mọi người, tại mọi nơi,  mọi chỗ và trong mọi ngành nghề.

Cuộc vận động dân chủ sẽ thành công bởi vì có sự góp sức của hơn hai  triệu người Việt đang sống nhiều nơi trên thế giới. Ngày xưa chúng ta  thường tranh luận nhau, trong nước hay ngoài nước sẽ đóng vai trò chủ  lực, trong nước hay ngoài nước sẽ là nhân tố chính thúc đẩy con tàu dân  chủ. Hôm nay, những tranh luận đó không còn cần thiết nữa. Mọi người  Việt Nam dù ở đâu trên trái đất nầy cũng đều có thể đóng góp, có thể làm  được phần mình theo điều kiện và hoàn cảnh mỗi người đang có mà không  phải chen lấn nhau hay dẫm lên bước chân người khác.

Việt Nam có thể vẫn còn phải tiếp tục chịu đựng dưới ách độc tài một  thời gian ngắn nữa nhưng các phong trào dân chủ không còn là các nhóm  nhỏ hoạt động rải rác mà sẽ phối hợp chặt chẽ và thách thức chế độ một  cách công khai bằng nhiều hành động cụ thể. Tranh đấu cho dân chủ là  khẩu hiệu của thời đại, là niềm vui chứ không còn là nỗi sợ.

 

FB Trần Trung Đạo

Trần Trung Đạo – Một tuyên bố chung Việt-Trung có 29 lần “nhất trí”

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn on 2013/06/22 at 09:11

Nguồn: voanews.com

Đọc tuyên bố chung giữa Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang ký ngày 21 tháng Sáu vừa qua mới thấy số phận chùm gởi CSVN phụ thuộc sâu xa vào cây cổ thụ già Cộng Sản Trung Quốc đến mức độ nào. Sự khiếp nhược và ươn hèn thể hiện rõ đến mức chỉ trong một văn bản gồm 8 điểm nhưng có tổng cộng 29 lần “nhất trí”.

Hai bên “nhất trí” không chỉ các chính sách đối nội nhằm duy trì quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng CS mà còn “có lập trường tương tự và gần nhau trong nhiều vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm” trong đó có cả vấn đề Đài Loan, một vấn đề thuộc nội bộ Trung Quốc không dính líu gì đến Việt Nam.

Tưởng cũng nên nhắc lại. Năm 1958, vì quá nhiệt tình nịnh bợ đàn anh CSTQ trong tranh chấp với Mỹ về vấn đề Đài Loan,  Bộ Chính Trị đại hội II của đảng CSVN đã chỉ thị Phạm Văn Đồng viết công hàm “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.” So sánh nội dung của tuyên bố chung lần này với các văn bản  theo đuôi Trung Quốc của các thập niên 1950, 1960 không khác nhau nhiều. Thời gian cách nhau hơn nửa thế kỷ nhưng mức độ khiếp nhược của CSVN đối với đàn anh CSTQ vẫn không thay đổi.

Vấn đề tranh chấp biển Đông là vấn đề nóng bỏng nhất, Trương Tấn Sang thay vì khẳng định việc quốc tế hóa, mở rộng vấn đề biển Đông sang các diễn đàn quốc tế như Philippines đang làm, lại cũng “nhất trí” thu hẹp vấn đề trong phạm vi hai nước “nhất trí giữ bình tĩnh và kiềm chế, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, đồng thời sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát khủng hoảng trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để các vấn đề này ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt-Trung cũng như hòa bình, ổn định tại Biển Đông.”

“Hòa bình” và “ổn định” là hai thuật ngữ ngoại giao bắt đầu từ chủ trương Đặng Tiểu Bình “giấu mình để bước tới” đã được lập đi lập lại trong hầu hết các văn bản về chính sách đối ngoại của CSTQ.

Từ nhiều năm nay, Trung Quốc một mặt kêu gọi “hòa bình” và “ổn định” nhưng mặt khác đã cho dời từng cây cọc trên vùng biên giới, lấn chiếm từng thước đất, từng bãi san hô, từng hòn đảo nhỏ trên biển Đông. Cái hèn hạ và tin tiện của đám lãnh đạo CSTQ là chúng chỉ biết ăn hiếp những đám lãnh đạo cũng hèn hạ và ti tiện tương tự, trong trường hợp này là CSVN  và chỉ biết ăn cắp vặt để các cường quốc không đủ lý do đặt vấn đề và các biến cố do chúng gây ra không đủ tầm vóc để được quốc tế quan tâm.

Bài học chính trị, kinh tế, quân sự từ thời thượng cổ đến nay đều cho thấy, đương đầu với kẻ thù lớn mạnh, chọn lựa cần thiết của các quốc gia nhỏ yếu là liên kết chặt chẽ với nhau và đồng minh với các nước lớn khác có quyền lợi mâu thuẫn với kẻ thù.

Dĩ nhiên giới lãnh đạo CSVN biết chiến lược quen thuộc đó nhưng tham vọng quyền lực của đảng CS và túi tham cá nhân, băng đảng không đáy đã làm mờ mắt họ, che mất tầm nhìn của họ vào các thế hệ tương lai con cháu giòng giống Việt.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, Đảng Cộng sản Trung Quốc là chỗ dựa duy nhất và cũng là cuối cùng của đảng CSVN. Từ đó đến nay, các chính sách của đảng, từ các đổi mới kinh tế, xã hội cho đến các quan điểm chính trị, tư tưởng gần như rập khuôn Trung Quốc.

Giới lãnh đạo CSVN quá lo cho nồi cơm riêng của họ đến nỗi quên rằng Trung Quốc cũng có nhiều thách thức kinh tế xã hội và hạn chế chính trị nội bộ cần phải vượt qua để có thể duy trì tốc độ phát triển kinh tế hiện nay và tiếp tục cạnh tranh với Mỹ, Nhật, Đức.

Kỹ thuật quân sự của Trung Quốc  tiến xa so với thời kỳ chiến tranh với Việt Nam tháng Giêng 1979 nhưng điều kiện kinh tế toàn cầu ngày nay cũng đã làm cho các cường quốc phụ thuộc vào nhau nhiều hơn so với 30 năm trước. Ngoài ra, các vấn đề môi sinh, ô nhiễm, khan hiếm năng lượng đang là những mối đe dọa trầm trọng tại Trung Quốc và ảnh hưởng lớn đến cán cân thương mại quốc gia trong tương lai gần.

Quốc gia nào cũng cần ổn định để phát triển nhưng Trung Quốc cần ổn định hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng.

Mặc dù viện trợ 2 tỉ đô la hàng năm để nuôi dưỡng chế độ độc tài man rợ của gia đình họ Kim nhưng chính Trung Quốc lại là một trong những nước lo lắng nhất khi họ Kim ra lệnh thử đầu đạn hạt nhân bất chấp lời can gián của Bắc Kinh. Bởi vì, nếu chiến tranh Nam Bắc Hàn lần nữa xảy ra, ngoài làn sóng tỵ nạn khổng lồ sẽ tràn ngập biên giới phía đông bắc Trung Quốc, hạ tầng kinh tế gầy dựng bấy lâu nay của Trung Quốc sẽ sụp đổ và có thể cả toàn bộ thượng tầng kiến trúc chính trị cũng sẽ tiêu vong theo. Giới lãnh đạo Trung Quốc còn ôm mối lo canh cánh khác bên lòng rằngTrung Quốc tuy là một nước lớn nhưng thường bị các nước nhỏ xâm lăng và cai trị nhiều chục năm, thậm chí hàng trăm năm như dưới các triều đại Mãn Thanh. Sự tan rã của đế quốc CSTQ chỉ là vấn đề thời gian.

Tuyên bố Việt-Trung mang nội dung ươn hèn và khiếp nhược của lãnh đạo đảng CSVN trước thiên triều CSTQ là lời cảnh tỉnh cuối cùng đối với những người đang còn ngóng cổ trông chờ, còn đang van xin thỉnh nguyện đảng CS sớm hồi tâm, hướng thiện mà còn là tiếng chuông gõ nhịp vào lương tri của cả dân tộc.

Như kẻ viết bài này kết luận trong bài “Ai giết 9 ngư dân Thanh Hóa ?” trước đây, chỉ có một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Quốc mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Do đó, thay vì van xin, thỉnh nguyện đảng CS, những ai quan tâm đến đến tiền đồ đất nước nên dứt khoát tập trung toàn lực vào việc thay đổi cơ chế chính trị độc tài CSVN hiện nay.

Nếu không làm được thế, rồi không chỉ 9 ngư dân Thanh Hóa, không chỉ Hoàng Sa, Trường Sa, mà cả dân tộc lại sẽ chìm đắm trong họa đồng hóa của thời đại mới. Và khi đó, đừng đổ thừa cho Trung Quốc mà chính sự nhu nhược, yếu hèn, mê muội trong mỗi chúng ta đã giết chết 9 ngư dân Thanh Hóa, giết chết chính chúng ta và dân tộc Việt Nam.

Nguồn: FB Trần Trung Đạo

Song Chi – Chủ quyền mất dần, nhục cũng thành quen

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Thế giới on 2012/12/02 at 11:45
Song Chi (NV) – Việc in chìm tấm bản đồ hình “lưỡi bò” trên hộ chiếu mới của nhà cầm quyền Trung Quốc chỉ là một diễn biến tiếp theo sau hàng loạt hành động trước đó của Bắc Kinh nhằm hợp pháp hóa bản đồ phi pháp này.
 
Và khi các nước có liên quan hoặc đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên biển Ðông còn đang tức giận và tìm cách đối phó với những tấm hộ chiếu “lưỡi bò”, thì Trung Quốc đã lại có thêm một bước đi khiêu khích nữa:
 
Báo chí trong và ngoài nước dẫn nguồn tin từ truyền thông nhà nước Trung Quốc nói rằng bắt đầu từ năm 2013, các quy định mới sẽ cho phép cảnh sát tỉnh Hải Nam lên tàu và lục soát các tàu nước ngoài bị xem là xâm nhập trái phép trong vùng biển mà Trung Quốc tự cho là lãnh hải của mình ở biển Ðông.
 
Trên thực tế từ nhiều năm qua, tàu Trung Quốc đã từng nhiều lần bắt giữ các tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam. Nhẹ nhất thì cũng là tịch thu ngư cụ, hải sản… rồi thả cho về, nặng hơn thì đánh đập, bắt giam, đòi tiền chuộc, cũng có khi tông chìm tàu…
 
Nhưng tất cả những hành động này chỉ là “không chính thức”.
 
Còn nay thì cảnh sát biển của Trung Quốc sẽ chính thức được quyền lục soát, tịch thu và trục xuất tàu nước ngoài xâm nhập khu vực đường “lưỡi bò”!
 
Ðiều này cho thấy Bắc Kinh ngày càng tự tin không cần giấu diếm mưu đồ độc chiếm biển Ðông, bất chấp sự lo ngại và phản đối của các nước trong khu vực và quốc tế.
 
Các nhà bình luận chính trị đã nói nhiều về chiến lược của nhà cầm quyền Trung Quốc trên biển Ðông: Ðó là cứ lấn dần, từng bước thiết lập quyền kiểm soát khu vực biển Ðông cho đến khi Trung Quốc có thể thâu tóm toàn bộ khu vực theo đúng như tham vọng của họ.
 
Với các nước khác như thế nào không biết, nhưng trước bước đi mới này của Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam sẽ làm gì để bảo vệ ngư dân và khẳng định chủ quyền của mình?
 
Liệu Việt Nam có dám cho tàu cảnh sát đi bảo vệ ngư dân mà nếu có, thì liệu có thể đối phó với lực lượng tàu hải giám, tàu ngư chính, cảnh sát biển… đồ sộ, đông đảo các loại của Trung Quốc?
 
Hay là cứ mặc cho tàu cá của ngư dân bị tàu Trung Quốc công khai chặn bắt, lục soát, tịch thu và trục xuất ngay trên chính vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam? Ðể rồi cùng lắm, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao lại xuất hiện, “phát lại” cuộn băng với những lời phản đối cũ mèm?
 
Và nếu tình hình cứ tiếp diễn một thời gian thì ngư dân Việt Nam dù có muốn cũng không thể tiếp tục ra khơi để rồi lại mất trắng tài sản, chưa kể có thể còn bị cảnh sát Trung Quốc đánh đập, lăng nhục, bắt giam.
 
Trong khi đó, tàu cá của ngư dân Trung Quốc, như thực tế đã xảy ra, ngang nhiên vào ra trên khu vực biển Ðông, đánh bắt cá dưới sự yểm trợ của những tàu hải giám.
 
Thế là dần dần người Việt đành bỏ trống biển khơi cho Trung Quốc. Nói cách khác, biển Ðông, hay ít nhất là khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam từ xưa đến nay, trở thành của Trung Quốc mà họ không cần phải gây chiến tranh. Vừa tốn kém vừa tạo điều kiện cho các nước khác có dịp “tọa sơn quan hổ đấu”, một điều mà nhà cầm quyền Trung Quốc tối kỵ.
 
Chưa hết, trên bản tin Thứ Sáu 30 tháng 11, 2012 của trang Nhật báo Ba Sàm lại có thêm “hung tin” từ một số blogger và một nguồn tin từ báo giới cho hay: Vào lúc gần 8 giờ ngày 30 tháng 1 năm 2012, tàu Trung Quốc lại vừa xâm nhập lãnh hải Việt Nam, cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 nằm sâu trong lãnh hải Việt Nam!
 
Còn nhớ, khi tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 vào tháng 5 năm 2011, Việt Nam đã phản đối khá mạnh, tổ chức họp báo đưa tin, báo chí được phép lên án mạnh mẽ. Liệu bây giờ Việt nam sẽ có phản ứng gì mạnh hơn nữa không?
 
Một ví dụ khác trước đó nữa, khi lần đầu tiên Bắc Kinh tuyên bố lập thành phố đô thị cấp huyện thuộc tỉnh Hải Nam lấy tên là Tam Sa nhằm quản lý 3 quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa vào cuối năm 2007, người dân Việt Nam đã giận dữ xuống đường tại Sài Gòn, Hà Nội.
 
Những cuộc biểu tình hiếm hoi đầu tiên phản đối Trung Quốc trong một chế độ mà biểu tình là chuyện cấm kỵ quả thật đã gây tiếng vang lớn, thế giới cũng phải lưu ý.
 
Tiếp theo là hàng loạt cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa-Trường Sa của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, tại các thành phố thuộc các quốc gia khác nhau.
 
Sức ép của lòng dân buộc nhà nước Việt Nam cũng phải lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Kết quả là Trung Quốc buộc phải tuyên bố tạm dừng kế hoạch này.
 
Thế nhưng sau một thời gian, cái “thành phố Tam Sa”, trung tâm hành chính Tam Sa lại được đường hoàng thành lập, phát triển.
 
Trung Quốc đã lập cục cấp điện, đã bắt đầu xây dựng các cơ sở xử lý rác thải và nhà máy xử lý nước thải ở đây (“TQ lập cục cấp điện trái phép tại Hoàng Sa”, báo VNExpress).
 
Trung Quốc đã tổ chức lễ thành lập “thành phố Tam Sa”, bầu thị trưởng, thành lập bộ chỉ huy quân đồn trú (”Trung Quốc ngang nhiên tổ chức lễ thành lập “thành phố Tam Sa”, báo Thanh Niên), phát hành bản đồ “thành phố Tam Sa,” v.v… và v.v…
 
Việt Nam đã làm gì? Một bên cứ phản đối, một bên cứ việc ta ta làm, đường ta ta cứ đi. Còn người dân? Chán ngán và không buồn phản đối nữa.
 
Thế là Trung Quốc thắng.
 
Vụ cắt dây cáp tàu, cấp hộ chiếu, cho cảnh sát biển được phép lục soát, trục xuất tàu cá của ngư dân Việt Nam… tất cả đều theo một lộ trình như vậy.
 
Trước đây khá lâu người viết bài này đã từng viết về tình trạng biển Ðông ngày càng trở nên chật hẹp với Việt Nam, nay thực tế đã quá rõ ràng, nghiêm trọng.
 
Mà nhà cầm quyền Việt Nam thì vẫn không cho thấy sẽ có một phương sách đối phó nào theo hướng mạnh mẽ tăng dần cho xứng tầm với mức độ ngang ngược ngày càng tăng từ phía Bắc Kinh, nếu không muốn nói là ngược lại.
 
Nhưng điều chua xót hơn là chính người dân Việt Nam chúng ta dường như cũng chẳng có cách gì khác ngoài việc giận dữ, tuyên bố phản đối.
 
Kinh nghiệm cay đắng của những cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc trước đây bị chính nhà nước Việt Nam gây khó dễ, ngăn chặn đủ kiểu, thậm chí thẳng tay đàn áp khiến cho những cuộc biểu tình khó có thể nổ ra nữa.
 
Mà nếu có nổ ra thì vài trăm người, thậm chí vài ngàn người cũng chưa đủ gây sức ép lên nhà cầm quyền Trung Quốc nếu chúng ta thử làm vài so sánh:
 
Cuộc biểu tình của khoảng 400 nghìn người Hong Kong chống lại bàn tay xâm lấn của chính phủ trung ương Trung Quốc đối với các vấn đề nội bộ của Hong Kong, nhân ngày kỷ niệm thứ 15 Hồng Kông được trao trả lại cho Trung Quốc -ngày 1 tháng 7 năm 2012.
 
Cuộc biểu tình của hàng chục nghìn người Hồng Kông đòi chính quyền Trung Quốc hủy bỏ việc áp đặt môn học “yêu nước Trung Quốc” đối với học sinh phổ thông ngày 1 tháng 9 năm 2912.
 
Hay những cuộc biểu tình của chính người Trung Quốc phản đối việc Nhật Bản quốc hữu hóa quần đảo Ðiếu Ngư/Sensaku. Xảy ra vào ngày 15, 16 tháng 9 năm 2012 tại nhiều thành phố khác nhau, lên đến hơn 60,000 người, một số cuộc biểu tình còn biến thành bạo lực, v.v…
 
Chỉ riêng Việt Nam, nhà cầm quyền đã thành công khi ra sức dập tắt mọi cuộc biểu tình, mọi hành động phản đối Trung Quốc, làm nguội lạnh lòng yêu nước và sự quan tâm đến tình hình chính trị, vận mệnh đất nước trong đa số người dân.
 
Trong khi chính họ ngày càng tự quen dần với nỗi nhục bị Trung Quốc lấn lướt, coi không ra gì, thì đến lượt họ cũng tập cho người dân quen với điều này.
 
Cũng như chuyện tham nhũng, càng ngày số vụ tham nhũng càng nhiều, mức độ tham nhũng càng lớn, nhưng người dân đã bị quen dần đến mức không còn thấy kinh ngạc. Thì chuyện Việt Nam bị Trung Quốc lấn dần trên biển Ðông đến lúc không còn chỗ mà lùi, cũng không làm ai hoảng hốt nữa.
 
Câu hỏi bây giờ không còn là liệu có mất nước hay không mà bao giờ thì mất?
 
Và thời gian không còn tính theo đơn vị năm nữa mà là tháng, ngày.
 
Song Chi