vietsoul21

Posts Tagged ‘Hồ Chí Minh’

Nguyễn Hưng Quốc – ‘Cậu Thủy’ và ‘Cậu Hồ’

In Liên Kết, Tạp văn, Văn Hóa on 2013/11/07 at 16:23

“Cậu Thủy” – ảnh VTC

Hằng ngày, tôi vẫn vào các tờ báo mạng ở trong nước, từ lề phải đến lề trái, để đọc tin. Có điều, hầu như chưa bao giờ tôi mở các bản tin về những chuyện như “tâm linh” hay “ngoại cảm”. Với tôi, chúng đều thuộc loại nhảm nhí, không đáng mất thì giờ: vô ích, hơn nữa, còn có thể gây cảm giác bức bối khó chịu: vô duyên. Vậy mà, tình cờ, sáng nay, một người bạn lại hỏi tôi về “Cậu Thủy”. Tôi ngơ ngác, không biết gì cả. Anh mới kể vắn tắt về các “thành tích” của “cậu”. Thấy thú vị, về nhà, tôi vào internet để… làm quen với “cậu”.

“Cậu” tên thật là Nguyễn Văn Thúy, quê ở thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh, sinh năm 1959, năm nay 54 tuổi. Trước, “cậu” làm công an; sau, không biết vì lý do gì, “cậu” về làm dân. Quen thói cũ, làm dân, “cậu” cũng không chịu sống một cách lương thiện: Cậu tàng trữ vũ khí quân dụng và lừa đảo hết người này đến người khác. “Cậu” và vợ “cậu” bị bắt và ở tù hơn 10 năm. Được thả về, mấy năm sau, “cậu” bỗng nổi tiếng là một nhà ngoại cảm xuất sắc và càng ngày càng giàu.

Cái giàu của “cậu” có thể nhìn thấy ngay ở ngôi nhà “cậu” ở: Nhà ba tầng, xây theo kiểu biệt thự, trên nóc có hai con rồng chầu; trước cổng, có hai bức tượng sư tử bằng đá trắng lớn sừng sững rất uy nghi. Trong nhà, nghe nói, các vật dụng đều thuộc loại đắt tiền.

Tiền ấy từ đâu ra?

Trước hết là từ khách hàng của cậu, những người muốn tìm hài cốt hoặc mồ mả của thân nhân. Suốt mấy chục năm chiến tranh, số người chết mà không tìm thấy xác hoặc xác bị vùi vội vã đâu đó trong rừng hoặc trên đồng hoang khá nhiều. Sau chiến tranh, một số người bị tù hoặc bị cải tạo chết và bị lấp dối giá đâu đó dưới lớp đất nông cũng không ít. Thân nhân những kẻ bất hạnh ấy không ngừng tìm kiếm. Cách tìm kiếm được báo chí trong nước quảng cáo nhiều nhất là nhờ các nhà ngoại cảm, trong đó, có “Cậu Thủy”.

Nghe nói khách hàng của “cậu” đông đến độ, lúc nào cũng nườm nượp; nhiều người, muốn gặp cậu, phải ăn chực nằm chờ trước nhà “cậu” cả đến mấy ngày trời. Khi gặp, “cậu” yêu cầu ghi tên người chết muốn tìm để “cậu” gọi âm binh tìm kiếm hoặc nhờ “Mẫu” chỉ giúp. Sau khi đã được “âm binh” báo cáo, “cậu” cho thuê xe chở gia đình khách hàng đi tìm mộ. Toàn bộ chi phí xe cộ và tài xế cho chuyến đi, khách hàng phải trả, khoảng năm bảy chục triệu. Cuối cùng, sau khi tìm được mộ thân nhân rồi, khách lại phải “hậu tạ” cho “cậu” một số tiền nữa. Nói chung, theo dư luận, muốn đến gặp “cậu”, người ta phải chuẩn bị ít nhất là 150 triệu đồng!

Thứ hai, một số cơ quan nhà nước cũng nhờ “cậu”, trong đó, được đề cập đến nhiều nhất là Ngân hàng Chính sách Xã hội. Cơ quan này đã nhờ “cậu Thủy” tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ. Dĩ nhiên là “cậu” làm được ngay. Tổng cộng, “cậu” tìm được 105 bộ hài cốt; mỗi bộ, được trả 75 triệu đồng; như vậy, “cậu” bỏ túi cả thảy được 7.9 tỉ đồng (khoảng gần 400.000 đô la). Các hài cốt được “cậu” tìm, sau đó, được mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ các tỉnh một cách long trọng để mọi người thấy rõ là đảng và chính phủ không hề quên ơn những người con đã hy sinh thân mình cho… cách mạng!

Nhưng mới đây, một số nhà báo, sau nhiều năm âm thầm điều tra, đã tiết lộ một sự thật khủng khiếp: những cái gọi là hài cốt ấy chỉ là xương heo hay xương bò mà “cậu” Thủy đã thuê người chôn sẵn. Chưa hết. “Cậu” còn khôn ngoan chôn theo một số bình tông (“bidon”, bình đựng nước) có khắc tên nguệch ngoạc cũng như một số đôi dép cao su. Có điều phần lớn các bình tông cũng như dép cao su ấy còn khá mới. Nhưng không sao. Ngân hàng Chính sách Xã hội vẫn nhắm mắt trả tiền cho “cậu”. Miễn là có cái xương nào đó mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ để thân nhân của họ an tâm và đồng bào khắp nơi đến thắp nhang kính vái!

Trước những sự thật được vạch trần không thể chối cãi được đó, ngày 28 tháng 10 vừa qua, công an đã đến còng tay “cậu Thủy”. Những ngày sau đó, báo chí khắp nơi nhao nhao chửi bới “cậu” là nhà ngoại cảm dỏm (ý là có những “nhà ngoại cảm” thật?).

Riêng tôi, đọc, tôi lại thấy thương “cậu”. Đương nhiên là “cậu” có lỗi, trước hết và chủ yếu là có lỗi với thân nhân những người đã chết. Những người ấy chắc phải thương bố/mẹ/chồng/vợ/con của mình lắm nên trong bao nhiêu năm không ngừng tìm kiếm; đến khi cầm được bộ xương heo/bò ngỡ là hài cốt của người thân, hẳn họ mừng rỡ vô cùng. Đến lúc nhận ra được sự thật, không biết họ sẽ đau đớn đến độ nào? Nhưng dù vậy, tôi vẫn thương “Cậu Thủy” vì, nghĩ cho cùng, tội của “cậu” cũng chả có gì đặc biệt.

Ở Việt Nam, trong thế kỷ 20 vừa qua, có một “nhà ngoại cảm” khác lừa dối nhiều người và nhận được nhiều tiền thưởng bất chính hơn “cậu Thủy” nhiều: Đó là “Cậu Hồ”.

“Cậu Hồ” cũng có tài sai khiến rất nhiều âm binh. “Cậu” cũng có “Mẫu” chỉ vẽ từng đường đi nước bước. “Cậu” cũng đem nhiều xương heo, xương bò, xương chó… ra lừa dân chúng để mọi người tin đó là thánh tích hay xá lợi của các bậc thần linh rồi sì sụp cúi lạy. “Cậu Thủy” chỉ làm 105 bộ hài cốt liệt sĩ giả; “cậu Hồ” chế tạo không những hài cốt liệt sĩ giả mà cả hài cốt quốc tổ giả và thần thánh giả; không những chỉ quy tập trong các nghĩa trang mà còn dựng sừng sững trong các cung điện, lâu đài, dinh này phủ nọ hết sức lộng lẫy và nguy nga. Nhiều bộ xương đến bây giờ vẫn còn ngọ nguậy và phóng uế tùm lum. “Cậu Thủy” chỉ lừa được một dùm người trong có sáu năm; “Cậu Hồ” thì lừa được cả thiên hạ trong gần một thế kỷ.

“Cậu” nào cũng dỏm. Nhưng nghĩ cho cùng, so với “cậu Hồ”, “cậu Thủy” chỉ là một thằng nhóc khôn lỏi. Có gì mà phải làm ầm ĩ chứ? Thôi, tha cho “cậu” ấy đi mấy bạn công an ạ.

Đồng môn và đồng chí với nhau cả mà.

Nguồn VOA

Sổ Tay Thường Dân Tưởng Năng Tiến – Giáo Giở

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Tạp văn on 2013/10/26 at 09:54
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường.
Tôi chào đời tại Sài Gòn, và vô cùng hãnh diện về nơi sinh trưởng của mình. Chính Từ thành phố này Người đã ra đi.
Nói thế nghe (chừng) hơi nịnh. Không dám nịnh đâu. Thường dân cỡ tôi làm sao mà bợ cao dữ vậy. Hơn nữa, trong “zụ” này, ở môi trường XHCN thì đâu có bao giờ thiếu những thiên tài. Không tin, và nếu rảnh xin (ghé qua wikipedia) đọc chơi vài câu cho biết:
Khi tôi còn là hạt bụi
Người đã lên tàu đi xa
Hay:
Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ
Chuyện xưa (như thế) đã đành nhưng hai phần ba thế kỷ sau vẫn còn có người “ngơ ngẩn” về chuyến xuất dương (tìm đường cứu nước) của Bác:
Đó là cuộc ra đi một mình, giữa bốn biển năm châu, giữa đại dương sóng cả… Sau sáu năm trên khắp các lục địa anh mới về Paris… Ở Paris, kể từ 1919, khi trình Hội Quốc Liên (tức Liên Hiệp Quốc bây giờ) bản Yêu sách tám điểm của nhân dân Việt Nam, dưới tên ký Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn đã bắt đầu một sự nghiệp viết nhằm lên án chủ nghĩa thực dân, cảnh tỉnh thế giới phương Tây, thức tỉnh thế giới thuộc địa. Một sự nghiệp viết gắn bó và phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc kể từ Bản yêu sách tám điểm – 1919, qua Tuyên ngôn độc lập – 1945, đến Di chúc – 1969 có độ dài 50 năm.
GS Phong Lê viết những dòng chữ (hơi lủng củng) ghi trên, tại Huế, vào hôm 26 tháng 5 năm 2011. Hai năm sau, vào hôm 26 tháng 9 năm 2013, từ Luân Đôn, BBC loan tin:
Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều tư liệu về cố lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhất là trong thời kỳ ông hoạt động ở hải ngoại… Trao đổi với BBC hôm 23/9/2013 từ Hà Nội, ông Hiển (phó giáo sư sử học Vũ Quang Hiển – ghi chú của tnt) cho rằng nhiều tư liệu có thể đang được lưu trữ ở các trung tâm lưu trữ hải ngoại, hoặc cần tới sự hợp tác của giới học giả quốc tế như ở Pháp, Nga, Trung Quốc.
Giời ạ, đâu có “cần tới sự hợp tác của giới học giả quốc tế như ở Pháp, Nga, Trung Quốc…” làm chi cho thêm phiền. Giới học giả Việt Nam (Trần Quốc VượngNguyễn Thế AnhVũ Ngự Chiêu…) đã trưng dẫn “nhiều tư liệu về cố lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhất là trong thời kỳ ông hoạt động ở hải ngoại…” – từ lâu – nhưng nó không “khớp” với sử (riêng) của Đảng và tự truyện của Bác nên đều bị phớt lờ hết ráo.
Cái kim (nhỏ xíu) trong bọc còn giấu không được hoài thì nói chi đến tiểu sử của một con người (vỹ đại) cỡ bác Hồ. Và nói đâu xa xôi, ngay trên một trang web rất bình thường (Sức khoẻ và Đời sống – Cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế) ở trong nước cũng đã có người “khẳng định” – một cách rất tế nhị, từ năm 2007 – rằng Bác không có dính dáng gì (nhiều) đến bản “Yêu sách của nhân dân Việt Nam”:
… Phan Văn Trường là người soạn thảo Yêu sách và trên thực tế văn bản này mang đậm dấu ấn của ông với nhãn quan của một nhà luật học. Thực vậy, Điểm 2 nêu rõ: ‘Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam’; hay Điểm 7 ‘Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật’. Như vậy có đủ cơ sở để khẳng định rằng tiến sĩ luật học Phan Văn Trường là kiến trúc sư của Yêu sách của nhân dân Việt Nam, một sự kiện tạo nên bước ngoặt trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20.
Tế nhị là một đức tính mà rất ít người sở đắc. Tác giả những dòng chữ sau đây – rõ ràng – không có được cái đức tính (dễ thương) này:
Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật. Chỗ nào ông muốn viết (hoặc sai người viết), chỗ nào giấu đi hoặc thêm thắt vào, đều có chủ đích rõ ràng. Và ông không hề ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của ông. Trong phạm vi khảo luận này… chỉ chú ý đến thời kỳ Nguyễn Tất Thành ở Pháp, từ 1919 đến1923. Thời gian này, ông tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chính những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh
Tất Thành chỉ là người được nhóm An Nam Yêu Nước chỉ định đem bản Thỉnh nguyện thư của người An Nam đến Hội nghị Hoà bình Versaillles. (Thụy Khuê. Nhân văn Giai phẩm & Vấn đề Nguyễn Ái Quốc. Tiếng Quê Hương: Virginia 2012).
Những vụ trộm cắp (lặt vặt) cỡ này, nói nào ngay, không hiếm trong cuộc đời hoạt động của bác Hồ hay bác Tôn nên đâu có chi quan trọng lắm để mà phải làm rầm rĩ. Ông Hà Sĩ Phu nghĩ một cách khoáng đạt hơn rằng: “… điều quan trọng đối với xã hội không phải ở chỗ quan điểm ấy là của ai, mà ở chỗ quan điểm tiến bộ ấy được thực hiện như thế nào.”
Ý niệm rất nới này cũng được GS Vũ Quang Hiển nhiệt liệt tán đồng – theo như bản tin (thượng dẫn) của BBC:
Nguồn gốc ở đâu, chuyện đời tư, chuyện cá nhân không quan trọng, mà cái quan trọng là ở sự nghiệp, mỗi con người đều có những nét riêng, thậm chí nét khuất trong đời tư, nhưng điểm quan trọng nhất là sự nghiệp mà họ theo đuổi.

Thôi thì cứ bỏ qua vài “nét khuất trong đời tư” của Bác, cứ giả dụ chính ổng (chớ còn ai nữa) là tác giả bản Thỉnh nguyện thư của người An Nam đi. Vậy thử nhìn xem: Bác, và các đồng chí lãnh đạo (từ khi giành được chính quyền về tay nhân dân đến nay) đã thực hiện 8 điểm yêu sách này ra sao?

  • Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
  • Cải cách nền pháp lí Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
  • Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
  • Tự do lập hội và hội họp;
  • Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;
  • Tự do họp tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ;
  • Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
  • Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.
Tuần tự xét hết tám điểm kể trên chắc phải tới Tết, hay không chừng (dám) tới chết luôn. Xin chỉ xem qua một điểm – điểm thứ nhất thôi – cho nó lẹ rồi đi ngủ: Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.
Không dám ân xá đâu. Từ ngữ này (e) không có trong tự điển của nước VNDCCH hay CHXHCNVN, nơi mà trại lính trại tù người đi không ngớt (người về thưa thớt năm ba) và mọi công dân đều có thể là một người tù ngoại trú, hay dự khuyết.
Coi: chỉ trong một tuần lễ, tuần thứ ba của tháng 10 năm 2013 thôi, công luận đã ghi nhận những sự kiện (dồn dập) như sau – xin ghi lại theo thứ tự thời gian:
Ngày 13 tháng 10 blogger Phạm Thanh Nghiên gửi đi một bức thư ngăn ngắn:
Kính gửi quý vị lá đơn của bà Nguyễn Thị Nga gửi trại giam số 6, Nghệ An, đề nghị cho chồng bà là nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa được đi chữa bệnh. Nhưng thay vì giải quyết yêu cầu chính đáng của bà thì chính quyền đã bí mật chuyển nhà văn NXN đến trại An Điềm, Đà Nẵng. Đây là một hành động rất không minh bạch và có thể coi như một tội ác. Không chỉ đối với nhà văn mà đối với gia đình, việc thăm nuôi sẽ rất khó khăn, tốn kém về tài chính cũng như về sức khỏe. Theo mong muốn của bà Nga, là phổ biến lá đơn (đã gửi ngay cho trại 6 khi viết) rộng rãi trên mạng. Bà cũng bày tỏ mong muốn được công luận, các tổ chức nhân quyền quan tâm đến trường hợp của chồng bà, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhất là kể từ khi khi ông bất chấp nguy hiểm, báo tin chuyện ông Điếu Cày tuyệt thực ra ngoài, ông luôn bị trù dập. Xin thay mặt bà Nguyễn Thị Nga, gửi lời cảm ơn tới quý vị.
Ngày 17 tháng 10, RFA loan tin: Mục sư Nguyễn Công Chính thường xuyên bị đánh đập trong tù. Mục sư Tin lành Lutheran Nguyễn Công Chính, người bị kết án 11 năm tù giam với cáo buộc có những hoạt động chia rẽ sự đoàn kết dân tội, nói xấu chính quyền, thường xuyên bị đánh đập trong tù vì không chịu nhận tội.
Cùng ngày, theo FB của An Đỗ Nguyễn:
Sáng nay, 17/10/2013, tại bệnh viện 30/4 Bộ Công an đã xảy ra một cuộc trấn áp của lực lượng an ninh, công an, dân phòng đối với gia đình thầy giáo Đinh Đăng Định. Phía lực lượng an ninh viện lý do là cô con gái của thầy Định chụp hình, quay phim để bắt vợ con thầy về đồn công an làm việc. Tuy nhiên, vợ con thầy đã chứng minh cho lực lượng an ninh thấy rằng điện thoại của họ chỉ có chức năng nghe gọi, nhắn tin, không có khả năng quay phim, chụp hình. Sau đó, phía an ninh yêu cầu gia đình thầy xuất trình giấy CMND và một mực cưỡng ép về gia đình về đồn làm việc.
Ngày 18 tháng 10, blogger Nguyễn Bắc Truyển viết trên facebook: Tù nhân chính trị tuyệt thực.
Tin từ gia đình cho biết, hai tù nhân chính trị, Đoàn Huy Chương và Sơn Nguyễn Thanh Điền đã tuyệt thực 3 ngày nay để phản đối chính sách giam giữ khắc nghiệt của trại giam Xuân Lộc (Đồng Nai).
Sơn Nguyễn Thanh Điền, bị bắt năm 2000, án 17 năm. Đoàn Huy Chương bị bắt năm 2010, án 7 năm. Cả hai tù nhân chính trị đang bị giam tại phân trại số 2, trại giam Xuân Lộc.
Trại giam Xuân Lộc, nơi giam giữ hàng trăm tù nhân chính trị. Vừa qua trại giam Xuân Lộc đã chuyển 05 tù nhân chính trị đi trại giam Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu) vì cho rằng 05 tù nhân chính trị có liên quan đến vụ nổi loạn tại phân trại số 1, trại giam Xuân Lộc vào sáng ngày 30/6/2013. 05 tù nhân chính trị là Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Phan Ngọc Tuấn, Huỳnh Anh Trí và Nguyễn Ngọc Cường. Mặc dù, lãnh đạo Tổng cục Trại giam và trại giam Xuân Lộc khẳng định trên báo chí rằng các tù nhân chính trị không có liên quan vụ nổi loạn của tù thường phạm. Tuy nhiên, tối ngày 30/6/2013, 05 tù nhân bị chuyển trại, sau đó họ bị biệt giam, cùm chân tại trại giam Xuyên Mộc.
Đầu tháng 10/2013, hai nữ tù nhân chính trị đang trong mang trọng bệnh là Mai Thị Dung và Đỗ Thị Minh Hạnh đã bị chuyển đi bằng xe tù trên quãng đường dài gần 2.000 km đến trại giam Thanh Xuân (Hà Nội), tay chân bị còng, bà Dung đang tuyệt thực. Chuyến đi dài đã làm hai nữ tù nhân kiệt sức và ngất xỉu nhiều lần.
Việc giam giữ khắc nghiệt, giam xa gia đình… là biện pháp vô nhân đạo mà trong Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền, công ước quốc tế về quyền Dân sự và Chính trị đã cấm áp dụng. Việt Nam đã tham gia hai công ước này và chuẩn bị ký công ước chống tra tấn tù nhân vào cuối năm 2013.
Nhiêu đó thôi đủ thấy sự nghiệp của Bác (nói riêng) và của cả Đảng (nói chung) không chỉ là một con số không, mà là một con số trừ âm không nhỏ:
Ôi, thằng Tây mà trước kia người dân không tiếc máu xương đánh đuổi
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả!
Nguyễn Chí Thiện

An Hoàng Trung Tướng – Ai là Anh Cả Quânđội Nhânzân Xứ Lừa?

In Lịch Sử, Liên Kết on 2013/10/10 at 17:01

An Hoàng Trung Tướng

FB An Hoàng Trung Tướng

An Hoàng Trung Tướng là một trong những người tiên phong của trường phái Bựa, ở một góc độ nào đó ngôn ngữ Bựa đang ngày trở nên thông dụng. Điều đó được thể hiện ngay trong nhiều bài viết của những cây bút nhà nghề với câu chữ đặc trưng của dân Bựa, và quan trọng hơn cả là lối tư duy, nhìn nhận đánh giá sự kiện – hiện tượng của những người tự nhận là Bựa rất phóng khoáng, không câu nệ, không né tránh, xin được giới thiệu tới bạn đọc Dân Luận một vài bài viết đặc trưng phong cách Bựa liên quan đến tướng Giáp, nhân vật đang được quan tâm số 1 hiện nay. Để tôn trọng tác giả, xin được giữ nguyên cách trình bày và văn phong có phần khó đọc, khó hiểu của người viết. Bài được đăng trên FB của An Hoàng Trung Tướng

Ai là Anh Cả Quânđội Nhânzân Xứ Lừa?

1) Câuhỏi này tưởngchừng đơnjản, nhưng trảlời đéo zễ, kểcả với các sửviên hàngđầu Xứ Lừa.

Bởi nếu chúng nói thật, chúng sẽ thành nói zối. Các cô sẽ đéo chấpnhận any lời nói thật, thế mới là Lừa, quân búzù.

Trước tới nay, ngót một thếkỷ, jáokhoa Lừa luôn zậyzỗ các cô, rằng Anh Cả của quânđội các cô chính là anh Thốngchế (RIP anh).

Đcm còn ai khác nữa? Anh Thốngchế đẻ ra quânđội tháng 12 năm 1944. Anh đeo bao boọchoọc (bao only, không có cả súng lẫn đạn) sừngsững 1m50 trước đoànbinh 34 anh nôngzân bắnđòm, mão calô lệch trán, jơ tay lên đầulâu thềthốt hysanh xươngmáu.

Đành rằng quânđội của nhânzân Lừa đã có từ lâu trước anh Thốngchế. Quânđội chống Fáp Lợn cũng. Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học.. đều triểnkhai binhlính đánh Fáp trước Ông Cụ nhiều năm. Nhưng vì những lýzo cánhân nhỏmọn, Ông Cụ đéo chấpnhận các lựclượng đó, zù chúng cũng cùng lýtưởng (chống Fáp) với cụ củ.

(2) Khi Ông Cụ từ China lẩn về Bắc Lừa tính chuyện binhbiến 1940, thì Nguyễn Bình, Chu Văn Tấn, đều đã triểnkhai quânđội, và địnhhướng fụctòng Ông Cụ.

Nguyễn Bình nguyên là tướng caocấp trong lựclượng Quốczânquân của Nguyễn Thái Học. Nhưng zo tranhjành quyềnbính với đồngnghiệp khi boss mới tèo, Bình bị đệ của Học đâm thủng mẹ một mắt, thành Bình Chột. Việc này khiến Bình hậnthù Quốczânquân rất, và xin theo Ông Cụ.

Quânđội (lykhai Quốczânquân) của Bình hoạtđộng từ 1936, khi anh Thốngchế còn đang làm mậtthám, mang-tên Bìnhthiênquân, rất janghồ hunghãn, đánh Fáp nhanh như rửa đít.

Chấpnhận theo Ông Cụ, Bình bị cụ củ buộc đổi tên Bìnhthiênquân thành Vệquốcđoàn, đồngthời vác toànbộ 3,000 chiếnbinh Vệquốcđoàn đấy nhập lựclượng anh Thốngchế, vốn kém Bình rất xa cả về tàinăng, bảnlãnh, thựclực, và kinhnghiệm, với vỏnvẹn ba chục anh bộđội thối mồm đéo anh nào biết bóp-cò súng mútcơtông.

Việc này khiến Bình cáukỉnh bứcxúc, và bỏ vào Nambộ theo lãnhtụ Ba Zuẩn.

Tại chiếntrường Nambộ, Bình khinh luôn anh Ba Zuẩn, và bị anh này đập chết tươi.

Khi chết, Bình đang đeo hàm trungtướng bộđội Ông Cụ (trungtướng zuynhất 194x, không có thượngtướng), nghĩa là chứcvụ chỉ sau anh Thốngchế (đạitướng) trong Quânđội Nhânzân, trên cả các anh Nguyễn Sơn (cựu-tướng của anh Mao China), Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Trần Đại Nghĩa, etc. Anh Nguyễn Chí Thanh năm nẳm thậmchí còn chưa thành bộđội.

(3) Chu Văn Tấn nguyên là tướng thổphỉ miền fùzung anhtúc, lẫylừng một thuở. Tấn thậmchí có quânđội chống Fáp riêng trước cả Nguyễn Bình, vào quãng 1934. Bộđội của Tấn đánh Fáp nhanh như rửa đít cũng, tên là Cứuquốcquân.

Khi Ông Cụ thufục được Tấn 194x (x<1), thì cụ củ buộc Tấn làm đệ cho anh Phùng Chí Kiên, lúc đó cũng đang là sếp của anh Thốngchế.

Việc này khiến Tấn điênkhùng và zọa lykhai Việtminh. Ông Cụ xoazịu Tấn bằng cách hứa tặng Tấn chức bộtrưởng quốcphòng tươnglai. Ông Cụ buộc fải hứa, vì Cứuquốcquân của Tấn chính là vệbinh ngựlâm bảovệ cụ củ trước vụ cướp chínhquyền 1945. Không có chúng, cụ củ chết chắc đừng lèonhèo. Mà cụ củ năm nẳm (1940-1941) nếu không vuốtve Tấn cẩnthận thì Tấn cũng đập chết ăn thịt luôn, bởi anh ý là toọc.

Và Cứuquốcquân của Tấn (với Kiên) mới chính là quânđội cáchmạng đầutiên zưới triềuđại Ông Cụ, chứ đéo phải Giảiphóngquân của anh Thốngchế, thànhlập tháng 12 năm 1944.

Ông Cụ sau đã jữ lời hứa với Tấn, nghiêmtúc fết. Tấn chính là bộtrưởng quốcphòng đầutiên của Lừa cộngsản. Anh Thốngchế bị tống sang bộ nộivụ.

Việc này khiến anh Thốngchế caycú rất, nhưng anh ý đéo zám bật. Suy cho cùng, Tấn cũng lại là hạng vượt rất xa anh Thốngchế cả về tàinăng, bảnlãnh, thựclực, và kinhnghiệm.

(4) Phùng Chí Kiên mới là nhânvật quantrọng nhất của loạt cồng này đcm thế mới tài. Anh ý làm đảolộn mẹ câu trảlời cho câuhỏi Zì đã đặt từ cồng đầu.

Trong đám đệ Ông Cụ, Kiên thuộc hàng râmran giàhói, tấtnhiên không tính bọn Thắng Đần aka Tôn Đức Thắng (1888), Bùi Tồ aka Bùi Bằng Đoàn (1889), và các thểloại búpbê ngộnghĩnh khác. Đám này chưa baogiờ nhận là đệ Ông Cụ. Ông Cụ cũng đéo chấpnhận các anh ý làm đệ. Các anh ý gọi Ông Cụ bằng Cụ chứ đéo gọi bằng Bác. Đó hầunhư là một sỉnhục.

Kiên (1901) chỉ kém tuổi Hồ Tùng Mậu (1896), nhưng hơn tuổi cả những anh được coi là bôlão côngthần bậusậu như Lê Hồng Phong aka Phong Bần (1902), Nguyễn Lương Bằng aka Anh Cả Đỏ (1904), Trần Phú aka Chú Lé (1904).

Ông Cụ fongcách jatrưởng bầnnông trungkỳ nhỏmọn, chỉ khoái bọn tintin nonnớt, chứ đéo ưa bọn jàhói. Đệ thântín của Ông Cụ chỉ có Phạm Văn Đồng aka Đồng Vều (1906) là jà nhất hiếmhoi. Anh Kiên kém Ông Cụ tận chục tuổi, mà vẫn bị cụ củ coi là quá jànua nhănnhúm.

Ông Cụ rất sợ bọn đệtử jàhói sẽ tinhtướng ngôngnghênh gànbướng mà ảnhhưởng côngnghiệp cụ củ. Nên anh Kiên cũng như anh Phong, anh Phú, anh Mậu, chắcchắn sẽ bị cụ củ mượn tay Fáp Lợn tỉn chết sớmsủa. Anh Bằng quá hãm và nhát, đéo tính.

Cụ củ sẽ chỉ tuyểnzụng những nhiđồng ngoanngoãn bảo sao nghe vậy, tầmcỡ anh Thốngchế (1912), anh Lê Quảng Ba (1914), thậmchí anh Phùng Thế Tài (1920). Thậntrọng vậy mà cụ củ vẫn bị anh Ba Zuẩn (1907) đập chết ăn thịt, thế mới cún.

Đây là thuật zùng-người truyềnthống của các lãnhtụ tàinăng hạnchế. Vì kém-tài, các anh ý cần trauzồi một fongđộ bềtrên kẻcả, lấy thâmniên tuổitác làm uytín chánhtrị, Lừa kêu là Đức (đứcđộ) và Thần (thầnthái).

Ông Cụ jàzặn hơn bọn đệ ruột đến 20 năm, mà vẫn nuôi râu bờmxơm quá ngực, bận áo cánh bàba, xỏ chân guốc lộccộc, đéo cưới phunhân, đéo nhận nhiđồng, nhằm thêm fần chachú.

Ông Cụ không là lãnhtụ Lừa đầutiên thựchành chiếnlược đó. Lê Lợi đã từng, rồi Trần Thủ Độ, Nguyễn Nhạc (anh ruột Hồ Thơm), vài anh nữa. Các anh ý có điểm chung: đều là bậc khaiquốc, chẳng được truyền ngôi.

Anh khaiquốc nào tinzùng bọn đệ jàhói ngangfân thường bị chúng đập chết ăn thịt luôn, như Lê Hoàn, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh. Anh Lê Lợi cũng suýt tiêutòng với vụ zùng anh Nguyễn Trãi, nhưng maymắn kịp sửa sai.

Anh Kiên được chính các lãnhtụ Sô Liên lẫn China bảolãnh và tiếncử. Về mứcđộ trungthành với lýtưởng cộngsản, anh ý là số 1, từng thamgia cả hồngquân Sô Liên lẫn hồngquân China Mẹ, đóng sĩquan caocấp, và zứtkhoát đéo đầuhàng bọn Nhật, bọn Fáp, và cả bọn Tàu Tưởng.

Các cô thấy, lãnhtụ cần đéo jì các cô trungthành với lýtưởng? Lãnhtụ chỉ cần các cô trungthành với chính lãnhtụ.

Các cô nghĩ các cô cứ lýtưởng lýtưởng lýtưởng thì được thăngtiến nên côngtrạng hoànhtráng à? Ngu đéo jì ngu thế hehe. Anh Kiên là một người như vậy.

PS. Sorry ở một cồng fía trên Zì ghi nhầm năm anh Thốngchế thànhlập Giảiphóngquân là 1941. Đínhchính fát cho hànlâm nhẻ.

(5) Kiên Phùng tuy bầnnông trungkỳ nhưng họchành khá chỉnchu chuyênnghiệp. Anh ý từng học trường sĩquan lụcquân Hoàngphố lừngzanh bên Mẹ China, sưfụ của anh tuyền caothủ gộc: thốngchế Tưởng (Giới Thạch), chuẩntướng Diệp (Kiếm Anh), chínhủy Chu (Ân Lai), cùng nhiều anhem quanlại Sô Liên khác nữa.

Kiên học bộbinh là chính, nhưng thựchành cả fáobinh và cơjới. Trần Canh, một đồngchí Khựa được Ông Cụ coi như “thánh cốvấn lụcquân”, tổng chỉhuy chiếnzịch Điện Biên Phủ, chính là một bạn đồnghọc của Kiên. Anh Lê Hồng Phong, tìnhđịch Ông Cụ, cọcchèo của anh Thốngchế, cũng đồnghọc Kiên luôn.

Học xong trường Hoàngphố, Kiên thamja bộđội anh Mao tấncông luôn thày của mình aka anh Tưởng, thành một trungđoàn-trưởng. Anh đánh vài trận, có thua có thắng, rồi được tuyển vào đảng Mao China (hệt các anh Lê Hồng Phong, Nguyễn Sơn, etc), rồi sang Sô Liên thụjáo các đạica vôsản trong Đôngfương Họcviện và vài trường khác. Tại Sô Liên, anh học tiếp ngành tácchiến lụcquân và học thêm ngành chuyênchính vôsản, trongkhi anh Phong học lái tàubay.

Đầu 1940, Kiên chính là tưlệnh (commander) của Ông Cụ. Anh zắt Ông Cụ bươnchải khắp China qua Bắc Lừa sang Hạ Lào, vào hang rồi lên núi, lội suối rồi leo cây, cỡi ngựa rồi săn gái (mama anh Mạnh sinh anh trúng zịp này nha), everything everywhere.

Không có Kiên thì Ông Cụ bốc cứt nhai vã và đếm jun jải khuây hàng ngày. Kiên màymò tổchức một trungđội toọc liềumạng, lúc nào cũng lận đầy thủfáo trong bụng, loanhquanh hầuhạ Ông Cụ.

Saukhi anh Hoàng Văn Thụ thufục được Cứuquốcquân của anh Chu Văn Tấn, Ông Cụ bắt Tấn và tậpđoàn anhem Cứuquốcquân fụctòng Kiên mọi nhẽ. Tấn cũng được fâncông làm fótướng cho Kiên. Tấn khá cáukỉnh, nhưng Ông Cụ cũng zànxếp okay.

Đúng lúc này, anh Thốngchế thôi hợptác với phòng-nhì Deuxième Bureau, chínhthức theo Ông Cụ. Đươngnhiên anh ý fải làm fótướng cho Kiên, như anh Tấn Toọc.

Rõràng, xét trên mọi khíacạnh, thì Kiên Phùng chính là thốngsoái đầutiên của bộđội Ông Cụ.

Nhưng đéo hiểu sao Ông Cụ không tin Kiên. Cụ củ zùng Kiên như zùng chó săn. Nhẽ cụ củ nghi Kiên trungthành với quốctế cộngsản (với Linh Sôliên, với Mao China) hơn với mình?

Đươngnhiên, đến một mùa nhạtmáu, chó săn fải thăngthiên. Kiên trong liền 3 ngày zính liền 3 trận fụckích của bộđội Fáp, mộtcách ngẫunhiên bíhiểm. Kiên đéo chống được, bị tóm sống, và bị chặt mẹ đầulâu.

Hơn 3 năm sau, anh Thốngchế và Ông Cụ mới hoànhồn, lọmọ thànhlập một đạobinh khác, cuối 1944. Ông Cụ khăngkhăng, đó mới là quânđội nhânzân đầutiên.

Sảnfẩm của Ông Cụ, cụ củ đặt tên đéo nào chả được? Cụ củ ban côngzanh cho anh Thốngchế, thì anh ý được hưởng mưamóc. Kiên Phùng đéo maymắn, đến mạng cũng đéo còn, fải chịu trầnjan quênlãng thôi.

Nhưng mọi chuyện đéo zừng ở đấy.

(6) Thảoluận chútđỉnh zịkhảo nha, trước khi theozõi tiếp vụ anh Phùng Chí Kiên.

Anh Thốngchế theo cáchmạng Ông Cụ rất muộn. Mãi cuối 1940 anh ý mới bám chân anh Phạm Văn Đồng aka Đồng Vều bỏ Hanoi lên chiếnkhu mò Ông Cụ. Cũng trong năm nẳm, chị Quang Thái vợ anh bị bọn Fáp Lợn tóm và tống jam, gòi tèo.

Năm nẳm anh Thốngchế đã trungniên, tròmtrèm tamthập, đang làm jáovụ tại một trường tiểuhọc nộithành Hanoi, thuộc sởhữu của anh Hoàng Minh Giám, một thanhniên tâyhọc tiếngtăm.

Jáokhoa Lừa chép anh Thốngchế làm jáosư (môn lịchsử) trường trưởng. Chả có jáosư jáosãi nào đâu. Fịa đấy. Vụ này anh Giám đã vài lần thanhminh, nhưng không zám côngbố rộngrãi.

Hãy so tuổi theo cáchmạng của các côngthần Ông Cụ như anh Đồng Vều (20), Trường Chinh aka Chinh Khu (22), Lê Duẩn aka Ba Zuẩn (22), Lê Đức Thọ aka Sáu Búa (19), Phạm Hùng (18), Trần Quốc Hoàn (18), Chu Huy Mân (17), Nguyễn Chí Thanh (23), Nguyễn Lương Bằng (25), Hoàng Quốc Việt (24), thậmchí các vàngson Quang Thái (15), Minh Khai (20), Thị Thập (23), etc, thì thấy anh Thốngchế không yêu Ông Cụ sớm, nếu không muốn nói là hehe quá muộn, theo fongcách “trở-cờ”. Đời cáchmạng anh chỉ tươngđương các anh Xuân Thủy (30), Lê Trọng Tấn (30), không khác mấy các anh Trần Đại Nghĩa (43), Hoàng Minh Giám (41), Nguyễn Bình (40), aka đám “trở-cờ” kinhđiển.

Như vậy, các cô thấy, ngay trong đảng mình, anh Thốngchế chưa baojờ được coi là bậc tiềnbối. Những bộđội thuộccấp của anh như Hoàng Văn Thái (23 @1938), Lê Thiết Hùng (22 @1930), Lê Hiến Mai (22 @1940), Hoàng Sâm (18 @1933), Văn Tiến Dũng (20 @1937), đều tiềnbối hơn anh nhiều boong, cả về thâmniên, lẫn thờiđiểm, lẫn tuổi thamja cáchmạng.

Vì nhẽ đó, anh Thốngchế rất hay bị thuộccấp bật như tôm, chưởi đù mẹ đù cha là thường. Nhưng anh cũng chẳng để-bụng thậmchí chẳng fànnàn. Đó hầunhư là một ưuđiểm, và được nhiều chiếnbinh lìutìu thánfục. Chúng nể anh ở chữ Nhẫn.

Anh Sáu Búa khi họp lãnhtụ chỉ gọi anh là Anh Văn, chả baojờ gọi anh bằng chứczanh mà anh khoái: đạitướng tổngtưlệnh. Anh cũng chẳng fiền.

Đáng tiếc, chữ Nhẫn không thể là fẩmchất của bậc zanhtướng. Anh Thốngchế, RIP anh, nhưng anh có hiểu điều đó không?

(7) Tiếptục thảoluận chút zịkhảo trước khi theozõi tiếp vụ anh Phùng Chí Kiên.

Cuối 1944, Ông Cụ chỉđạo anh Thốngchế cùng anh Hoàng Văn Thái thànhlập Đội Vietnam Tuyêntruyền Giảiphóng.

Ngay cách đặt tên mớimẻ này (so với Cứuquốcquân, Vệquốcđoàn hàonhoáng trước đấy), cùng với việc jao tráchnhiệm cho anh Thốngchế nontơ chả kinhnghiệm chiếntranh mẹ, đã cho thấy Ông Cụ đéo tintưởng lắm vào thànhcông của cáchmạng, cũng đéo tintưởng những tay võbiền khoái đụngđộ đâmchém như Kiên Phùng.

Ông Cụ chỉ zám gọi lựclượng vệbinh mới của mình là Đội (Team), và cẩnthận thêm chữ Tuyêntruyền (Propaganda) vào trước chữ Giảiphóng (Liberation), hàmý, lựclượng này chỉ làm nhiệmvụ tuyêntruyền là chính, và quymô nhonhỏ xinhxinh thôi.

Biênchế Đội của anh Thốngchế cũng khiêmtốn hơn Quân của anh Kiên anh Tấn nhiều boong, vỏnvẹn 34 chiếnbinh toọc, aka 3 tiểuđội. Các anh cũng đéo trangbị võkhí. Súng boọchoọc anh Thốngchế đeo bên sườn chỉ có vỏ chứ không có ruột. Anh Thái thậmchí chỉ đeo gươm. Các anh ý cần đéo jì đến súng fỏng. Các anh khác cũng.

Jảzụ Ông Cụ không thànhcông lần nữa, năm 1945 đéo cướp được chánhfủ của anh Trần Trọng Kim, thì anh Thốngchế cũng lên đường theo anh Kiên thôi. Ông Cụ tàihoa vụ này nhất. Và đươngnhiên một quânđội khác sẽ được thànhlập, với những biênchế mới, nhiệmvụ mới, chiếnlược mới.

(8) Kếtthúc vụ anh Phùng Chí Kiên nhẻ.

Anh Kiên bị bọn Fáp chặt đầulâu, Cứuquốcquân tantành, anh Chu Văn Tấn lánh mẹ sang Choang Khựa. Ông Cụ sai anh Thốngchế lập quânđội mới, 3 tiểuđội toọc chân trần mắt xếch tuổi 18-20.

Anh Thốngchế rốtcuộc thànhcông, anh Tấn thì kịpthời zây-máu-ăn-fần bởi lời hứa vộivàng của Ông Cụ. Nhưng anh Kiên Phùng hoàntoàn bị quênlãng.

Nếu Zì không kể lại trong loạt cồng này, Zì đoanchắc 50% số văncông ở đây đéo biết anh Kiên là ai, thậmchí chưa baojờ nghe tên anh. Jáokhoa của đảng không nhắc anh một lần nào. Anh thậmchí đéo lừngzanh bằng Nông Zền, Lê Tám, hay Văn Đàn, Đình Jót, Bá Ngọc, Viết Xuân, những huyềnthoại vănchương thuầntúy. Các đồngđội anh, hàng trăm chú toọc bị bổ gươm jữa gáy hoặc buộc thép thả sông, không một ai được ghicông liệtsĩ. Về các anh, chỉ còn lại nhõn hùngca Bắc Sơn của thợ-nhạc Văn Cao.

Hanoi có fố Phùng Chí Kiên, nhưng 99% cưzân nơi đó đéo biết Kiên là gã chăn trâu bỏmẹ nào.

Zì đôibận nghĩ lẩnthẩn rằng, nhẽ Ông Cụ sợ anh Kiên Phùng bẻmmép vụ mama anh Mạnh, nên quyết xóa sạch anh ý, hay chăng? Jảthiết thôi, nhưng cũng không hẳn không cólý.

Mãi 199x, anh Kiên Phùng mới được truytặng Huânchương Chiếncông Hạng Ba, còn kém papa Zì một hạng, kém đạitá Tai Vuông hai hạng. Cả hai anh bộđội vănfòng này đéo có chiếncông cặc nào, thậmchí suốt đời binhnghiệp các anh đéo bóp-cò súng-lục nhát nào. Tên fố Hanoi cho Kiên Phùng cũng xuấthiện sau những năm đó.

Tận 200x, cách nay tầm chục năm, bỗngzưng some lãnhtụ nhớ ra Kiên, và chúng quyếtđịnh fong cho anh hàm tướng.

Thật hàihước, chúng đéo nói rõ hàm tướng của Kiên Phùng là mấy sao. Năm sao nhẽ nhiều quá, mà bốn sao thì hóa ra công của anh còn thua công anh Thốngchế à?

Nhưng điều hàihước hơn, và khôngthể không khiến các cô cười sặc-sằng-sặc, là việc Kiên Phùng đang là người zuynhất trầnjan đeo lon sĩquan caocấp của một quânđội thànhlập sau khi anh chết.

Zì sẽ không ngạcnhiên, nếu vài năm nữa lãnhtụ các cô sẽ fong anh Trần Hưng Đạo hàm trungtá, hoặc anh Lý Thường Kiệt hàm đạiúy, của quânđội nhânzân các cô. Các anh ý cũng chết trước khi anh Thốngchế khaisinh quânlực, ychang Kiên Phùng bạcmệnh, đó thôi?

____________________________________________________

Thốngchế Vănfòng

Có con nào còn bàochữa anh Thốngchế vụ anh ý làm tướng nhưng đéo thèm ra trận? Aka Thốngchế Vănfòng?

Thuở tiềnbối xaxăm, lãnhtụ mà đéo vác gươm cỡi ngựa ra trận thì gọi là Quan (vănquan). Còn lãnhtụ ra trận thì gọi là Tướng (võtướng). Điều jảnđơn này mà Zì còn fải jảng cho các cô nữa, thì các cô hàng ngày cắn cứt thay cơm à?

Tào Tháo bạn Zì không fải là một Quan. Anh ý hoàntoàn là một Tướng, thậmchí mãnhtướng. Văncông có nhớ trong bài Luận Anhhùng, Zì kể chuyện anh Tháo cỡi ngựa trắng bước thảnnhiên trong làn đạn không? Anh Điển Vi với anh Hứa Chử fải lonton vác mộc đỡ đạn cho anh ý.

Tần Thủy Hoàng bạn Zì cũng vậy. Là quânvương, nhưng anh ý đồngthời là mãnhtướng. Các cô cóthể kiểm lại Sửký. Ở Lừa, anh Quang Trung hay anh Lê Lợi đều là những anh Tướng thựcthụ.

Đạitướng Eisenhower khi thốnglãnh Mẽo Quân tại WW2 đặt hànhzinh cách bãi fáo Đức Fátxit vỏnvẹn 5Km.

Đạitướng MacArthur khi thốnglãnh liênquân Mẽo & Co tại chiếntranh Korea ngủ luôn trong chiếnhào. Năm nẳm anh ý đã 73 tuổi.

Tướng mà đéo nghe được tiếng súng, đéo ngửi được khói bom, đéo nhìn được các chiếnbinh của mình ngã nhào như chó, máu đổ như sông, khóc ròng như jun zế, thì tướng tướng cái đầu buồi jì?

Có 2 nghề buộc nghệnhân fải trải qua thựcđịa. Đó là nghề Y, vốn là nghề Cứu Người, và nghề Lính, là nghề Giết Người.

Các cô mà mổ cho bịnhnhân trên Gúc, chả baogiờ lâmsàng, thì ai gọi các cô là Bácsĩ? Các cô cóthể là jáosư ykhoa, hay jì đó mặclòng.

Cũng vậy, các cô mà đánh trận trên jường hay trong máy Playstation, thì ai gọi các cô là Tướng?

Việc “Tướng Playstation” nướng cả vạn bộđội trên bãi bom napal Vĩnh Yên, cũng chả có đéo jì lạ, ychang các “Bácsĩ Gúc” mổ nhầm vài chục bịnhnhân remotely thôi mà.

_________________________________________

Nhà anh Thốngchế vs nhà anh Ba Zuẩn

Nhà anh Thốngchế nằm số 30 đường Hoàng Diệu Hanoi, ziệntích khủng gấp 6 lần nhà lãnhtụ Ba Zuẩn số 6 cùng fố.

Đất nhà anh Thốngchế rộng ngang quãng 120m và sâu vôbiên. Có hai cổng sắt bự đốixứng, có bãi cỏ đá banh tắm nắng vôtư, có đường nhựa vòngvèo trong khuônviên xetăng T54 chạy thoảimái. Mấy ngày qua các cô đi viếng chánchê rồi, lạ đéo jì đâu. Zì nhắc cho vui.

Nhà anh Ba Zuẩn chỉ rộng hơn chútxíu nhà anh Văn Tiến Dũng, vốn cũng là côngthự đường Hoàng Diệu, nằm sát vách nhà anh Thốngchế.

Lýzo là anh Ba Zuẩn ra Bắc Kỳ muộn quá, tận cuối 195x, khi nhà ngon nhà đẹp Ông Cụ chia mẹ hết cho côngthần gộc rồi.

Nhà anh Ba Zuẩn không chỉ hẹp về ziệntích, mà còn xấu kinhhoàng về kiếntrúc, bởi đó vốn là nhà của một tưsản thuần Lừa. Còn nhà anh Thốngchế vốn là tưzinh của một anhem quanlại Fáp Lợn, tinhtế và hàohoa.

Building anh Ba Zuẩn nằm sát đường chứ không sâu trong khuônviên câytrái umtùm như building anh Thốngchế. Xâyzựng kiểu thuần Lừa nó fải vậy.

Vì nhẽ đó, suốt mấy chục năm, cửa building anh Ba Zuẩn không baojờ hé, zù chỉ một fút. Không những thế, anh ý còn cho zựng những tấm thép zày 4cm bịt toànbộ cửa fía Hoàng Diệu. Nhà anh ý lúc đéo nào cũng tối mịtmùng, đéo thấy một ánh điện nào hắt ra, người không canđảm sởn mẹ gai bẹn như bước ngang nghĩađịa. Zì cũng.

Bôlão Zì jảng rằng, suốt thời chiếntranh, anh Zuẩn toàn hoạtđộng trong nhà mình, chứ đéo mấy khi sang côngsở bên Nguyễn Cảnh Chân hoặc Bộ Tưlệnh trong thànhnội. Anh sợ jánđiệp ngụyquân hoặc đốithủ tiềmtàng ámsát. Ngày và đêm, anh cứ lòngvòng sau những cửa thép 4cm, đi xuôi rồi đi ngược, tay bóp trán tay vê thuốc, suy mưu lượng kế đập chết ăn thịt bọn Nam Kỳ. Môi anh thâm đen như lồn trâu. Đcm Zì nghe mà hết hồn.

Zì bàn thêm chút về nhàcửa của côngthần Ông Cụ.

Thuở mới về thành 1954, Ông Cụ cho bộđội chiếm hết nhàcửa đấtcát của anhem quanlại Fáp. Sau đó anh côngthần nào thích nhà nào thì cứ zắt vợcon zọn vào, chả jấytờ mẹ jì. Đúng là thiênđàng nhẻ.

Anh Đồng Vều aka Phạm Văn Đồng với anh Chinh Khu aka Trường Chinh, đều là đạicôngthần, vaivế trên hạng anh Thốngchế, nhưng tínhtình cũng điềmđạm đànghoàng, đã chọn những biệtthự khiêmtốn fố Phan Đình Phùng. Nhà anh Đồng Vều bé tẹo bửnbửn. Anh ý bảo chỉ cần thế thôi, vì anh ý hiếm con (nhõn một nhiđồng), còn vện anh bệnh thầnkinh nặng, nhà to mà làm đéo jì.

Anh Tôn Đức Thắng với anh Nguyễn Lương Bằng thì thậmchí chọn biệtthự trong hẻm. Các anh thuộc ziện biếtđiều và nhìnnhận vấnđề nghiêmtúc.

Nhưng anh Thốngchế thì đéo. Anh zứtkhoát fải chọn quả nhà ngon nhất Hanoi thậmchí nhất Vietnam. Khuônviên anh rộng tới nỗi đứng ngoài đường đéo nhìn zõ building fía trong. Nhà anh là nhà côngthần zuynhất có cả đường nhựa nộibộ.

Nhà anh Ba Zuẩn là nhà tịchthu của tưsản mạibản. Anh ý nhận nó khá muộnmàng, nên chả fànnàn đéo jì. Anh ý cũng đéo cần tranh nhà của anh Thốngchế, nhưng anh ý zất ghét cái cách anh Thốngchế chơi ngông.

Nguồn: Dân Luận

Có nhiều điều đáng giá trong quyển “Cuộc chiến của Hà Nội”

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Thế giới, Việt Nam on 2013/04/18 at 22:36

“chiến thắng của Hà Nội không phải vì kiên trì và ngoan cường, không phải vì họ chinh phục được con tim và trí óc người dân miền Nam, không phải do những hy sinh to lớn của quân đội và nhân dân miền Bắc Việt Nam, và cũng không phải vì nội tình chính trị nước Mỹ trói tay và làm suy yếu các nỗ lực của Mỹ, nhất là dưới thời Nixon. Chiến thắng của Hà Nội chính là do sức ép không khoan nhượng và không thể cưỡng lại của khối quốc gia hậu thuộc địa, các quốc gia thế giới thứ ba, và nhiều quốc gia phản chiến cũng mong muốn dạy cho Mỹ một bài học và đã bị dẫn dắt bởi tuyên truyền và ngoại giao khôn ngoan của Hà Nội”

Richard Coffman

Phòng Thủ Tốt Nhất – Văn phòng về chiến tranh Việt Nam

Cuộc chiến của Hà Nội là một cuốn sách quan trọng dựa vào các hồ sơ lưu trữ bí mật của chính phủ và Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuốn sách này biên niên về cách Hà Nội lên kế hoạch và tiến hành chiến tranh ở Việt Nam sau khi Pháp thua trận và rút khỏi Đông Dương năm 1954.

Hơn thế nữa, cuốn sách làm nổi rõ các bất đồng nghiêm trọng ở cấp cao nhất tại Hà Nội về ưu tiên, chiến lược, và các nguồn lực bên cạnh những thứ khác đã làm hỏng sự chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 và dẫn đến vụ bắt giữ và thanh trừng. Nếu Washington và Sài Gòn có một bức tranh rõ ràng hơn về điều này lúc đó thì cuộc chiến chắc chắn sẽ được tiến hành khác đi và kết quả cũng có thể là thuận lợi hơn. Có thể công bằng để nói rằng chúng ta chẳng biết nhiều về lãnh đạo của Hà Nội lúc đó như chúng ta biết gì về lãnh đạo Bắc Triều Tiên ngày hôm nay.

Như vậy, cuốn sách này cho thấy chiến dịch ném bom của Mỹ ở Bắc Việt Nam và các cuộc hành quân đường bộ vào các chiến khu, cơ sở cộng sản ở Campuchia và Lào đã gây thiệt hại khá nặng vào nỗ lực chiến tranh của Hà Nội. Nó tiếp tục cho thấy sự thất bại hoàn toàn và chi phí khổng lồ của những cuộc tấn công lớn của Hà Nội trong năm 1968, 1969, và năm 1972 đã buộc miền Bắc phụ thuộc nhiều hơn vào Liên Xô và Trung Quốc và cuối cùng là tham gia vào các cuộc đàm phán để cho lực lượng Mỹ rút quân.

Tác giả, Nguyễn T. Liên-Hằng, là người Hoa Kỳ gốc Việt Nam và là giáo sư tại Đại học Kentucky, được tiếp cận với vô số tài liệu lưu trữ chính thức bằng tiếng Việt, nhiều cá nhân, và bản thảo chưa được công bố. Trong số nhiều người, cô phỏng vấn ông Hoàng Minh Chính, lý thuyết gia cộng sản hàng đầu một thời của Bắc Việt Nam và cũng là nhà bất đồng chính kiến ​​bị thanh trừng. Cô đã truy cập cuốn hồi ký chưa được công bố của người vợ cả Bí thư đảng cộng sản Lê Duẩn, người đã hoạt động công tác ở đồng bằng sông Cửu Long trong nhiều năm

Cô Liên-Hằng không những chỉ khai phá lối đi mới nhưng sắp xếp tổ chức tốt, lập luận rõ ràng, cũng như xử lý trình tự thời gian các văn bản của cuộc chiến tranh Việt Nam và đường hướng của Hà Nội. Độc giả sẽ biết ơn khả năng viết và tổ chức của tác giả trong rừng các tài liệu cơ bản dày đặc này, và nhất là cô ấy đã tuyên bố rõ ràng rằng các tài liệu lưu trữ cô xem xét đã bị tẩy rửa và chắc chắn là không đầy đủ.

Đối với học sinh nghiên cứu về ý thức hệ cộng sản và chiến thuật, Cuộc chiến của Hà Nội mô tả sự thăng tiến đến đỉnh cao quyền lực của nhà lãnh đạo cộng sản Lê Duẩn và người thân tín là ông Lê Đức Thọ, và sự tụt thoái quyền lực ra bên lề của Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thật vậy, hai anh hùng nổi tiếng thế giới với cuộc cách mạng cộng sản Việt Nam mà ai cũng tưởng rằng có quyền lực vô biên ở Hà Nội lại bị cho ra rìa trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Ông Giáp thì căm tức, cay cú ở Hungary còn ông Hồ thì ngồi chơi xơi nước tại Bắc Kinh.

Chúng ta được biết thêm rằng mặc dù Lê Duẩn liên tục thất bại cả về chiến lược và chiến thuật trong chiến tranh ở miền Nam, thiệt hại nặng nề nhân lực và phá nát gần như hoàn toàn nền kinh tế miền Bắc, ông vẫn nắm giữ quyền lực nhờ đàn áp dã man và không ngừng. Ngay cả trước khi Hà Nội Hilton nổi tiếng vì giam cầm phi công Mỹ,  nhà tù này chứa hàng chục đối thủ chính trị và bất đồng quan điểm ​​với Lê Duẩn, dù là thực sự hay tưởng tượng. Cuộc thanh trừng triệt hạ các sĩ quan quân đội cấp cao thân cận với Giáp và ngay cả một số người giúp kế hoạch cuộc Tổng tấn công.

Những điều trên và một số điểm khác tiếp theo trong cuốn sách này phải làm giới tình báo phương Tây, các quan sát viên ngoại giao, nhà báo, nhà sử học, các viện nghiên cứu, và phe cánh tả quốc tế nhún nhường, khiêm tốn hơn vì những người này có quá nhiều đánh giá sai lầm về Bắc Việt Nam lúc đó và những nhận định và giải thích sai lầm ấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Thật rõ ràng đây không phải là lịch sử xét lại. Phụ đề của cuốn sách tiết lộ cho chúng ta thấy chút đầu mối về thiên hướng của tác giả: “Lịch sử quốc tế về chiến tranh vì hòa bình ở Việt Nam.”

Tác giả vẫn kiên định để mô tả cuộc chiến tranh Việt Nam là “không thể thắng được” đối với Hoa Kỳ. Điều này chắc chắn phải là một tin nóng tới tai các sử gia đương đại nổi tiếng như Lewis Sorley và Mark Moyar, mà gần đây các nghiên cứu của họ dù không có tư liệu gốc về các lủng củng của Hà Nội, đã khẳng định rằng kết cuộc ở Việt Nam chưa hẳn đã phải là như vậy. Thêm vào đó, cô ấy có một ác cảm mãnh liệt đối với Richard Nixon và Henry Kissinger, ngay cả khi mô tả rất tinh tường và chi tiết cách họ cùng lúc ảnh hưởng cả Moscow và Bắc Kinh ép Hà Nội – và chống lại bản năng sâu bén của ông Lê Duẩn – để có được những thỏa thuận tốt nhất hầu tách Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam.

Thật vậy, Lê Duẩn chuộng những cuộc tấn công lớn để khích động cuộc tổng nổi dậy quần chúng ở miền Nam nên ông đã gửi Lê Đức Thọ, cánh tay phải của mình, đến Paris nhằm giữ kín các cuộc đàm phán. Điều này rập khuôn mẫu của Lê Duẩn luôn chỉ định các tướng đáng tin cậy để chỉ huy những người cộng sản miền Nam cứng đầu luôn tin rằng cuộc cách mạng của họ đã bị phản bội bởi Hiệp định Genève năm 1954. Thật là mỉa mai – hay ngoan cố – để xem rằng Lê Đức Thọ đã giành giải Nobel Hòa bình vì thành tích của ông ta ở Paris.

Cuối cùng, cô cho rằng chiến thắng của Hà Nội không phải vì kiên trì và ngoan cường, không phải vì chinh phục con tim và lý trí người dân miền Nam, không phải do những hy sinh to lớn của quân đội và nhân dân miền Bắc Việt Nam, và cũng không phải vì nội tình chính trị nước Mỹ trói tay và làm suy yếu các nỗ lực của Mỹ, nhất là dưới thời Nixon. Chiến thắng của Hà Nội chính là do sức ép không khoan nhượng và không thể cưỡng lại của khối quốc gia hậu thuộc địa, các quốc gia thế giới thứ ba, và nhiều quốc gia phản chiến cũng mong muốn dạy cho Mỹ một bài học và đã bị dẫn dắt bởi tuyên truyền và ngoại giao khôn ngoan của Hà Nội. Đấy có lẽ là di sản lớn nhất của cuộc chiến của Hà Nội và là khuôn mẫu cho những ai đang dự định các chiến dịch cách mạng trong tương lai chống lại quyền lực phương Tây.

Kết luận bay bổng trên chỉ hơi làm giảm đi những gì có thể được xem như là một đóng góp quan trọng và độc đáo cho sự hiểu biết của chúng ta về những gì chúng ta phải đối mặt tại Việt Nam. Sinh viên ngành lịch sử quân sự, chiến tranh Việt Nam, và chủ nghĩa cộng sản cách mạng có nhiều thứ để trông mong từ những tài liệu lưu trữ được khai thác đầy đủ hơn trong những năm tới.

Richard Coffman từng là sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến tại Chu Lai và Đà Nẵng, thời Việt Nam Cộng Hòa năm 1965-1966. Sau đó ông phục vụ ở cơ quan CIA trong 31 năm, chuyên phân tích về các lãnh đạo Bắc Việt từ năm 1967 đến năm 1972.

Nguồn: Foreign Policy (Tạp chí Chính Sách Ngoại Giao)

Bài liên hệ: Đập tan các huyền thoại về Việt Nam

Phó thường dân (16): Mít tờ Đàm và “Bác Hồ”

In Chính trị (Politics), Lịch Sử on 2012/12/07 at 17:21

Hổm rày phó thường dân tui nghe rất nhiều chuyện nổi tiếng, lừng danh. Từ chuyện “nhà giáo ưu tú” Nguyễn Thiện Nhân[1] sang chuyện Mít tờ Đàm khóa môi[2] thầy tu đến cái danh xưng “Bác Hồ”. Hổng biết bà con cô bác nghĩ sao chứ tui thấy nó cũng hao hao một rặc với nhau. Toàn là danh với tiếng! Hổng biết là cái giống gì?

Danh tiếng – Danh dự (Fame – Honor)

Danh (tiếng) có thể mua được. Mà lại rất dễ mua trong thời đại a còng à nhen. Một ý tưởng trên facebook, một câu twitter, một đoạn phim trên youtube đều có thể làm một người được nổi danh. Mít tờ Đàm khóa môi, Ngọc Trinh lộ hàng, mợ Doan “dân chủ Việt Nam … cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”, cậu (vô) Phước “đề nghị Quốc hội loại bỏ Luật lập hội và Luật biểu tình khỏi danh sách dự án luật suốt nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII” vì “Việt Nam chưa phải là siêu cường kinh tế để có thể đài thọ cho một sự ô danh”, chàng Thăng xe “chính chủ”. Tất cả đều nổi tiếng.

Mít tờ Đàm hôn môi nhà sư (ảnh: internet)

Danh (dự) thì ngược lại rất dễ mất mà không mua được. Có dzậy nên ông bà mình mới nói “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”. Muốn bảo tồn danh dự thì nhiều lúc phải trả giá bằng mạng sống hoặc tù đày lưu vong.

Danh dự của nhà thơ Hữu Loan tự bỏ bút về quê thồ đá không sống chung với các đồng chí vô nhân.

Danh dự của nhà thơ Lê Đạt không muốn “đem bục công an đặt giữa trái tim người” bị lên án tù đày.

Danh dự của luật gia Nguyễn Mạnh Tường không chấp nhận luật lệ rừng rú “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch” giết người vô tội vạ trong cải cách ruộng đất nên trở thành “kẻ mất phép thông công[3].

Danh dự của triết gia Trần Đức Thảo nói lên sự thật qua bài “Nội dung xã hội và hình thức tự do” và “Nỗ lực phát triển tự do dân chủ” với kết cuộc bi thảm là bị đưa đi lao động cải tạo chăn bò làm lữ hành đơn độc đến cuối đời.

Danh dự của nhà văn Dương Thu Hương tự nhận “răng đen, váy đúp”, “làm giặc” sổ toẹt vào mặt cái dối trá của đảng csvn cũng đã bị hăm dọa “Chị sẽ được nghiền ra tương ớt!” qua những tháng tù đày năm 1991[4].

Danh dự của những công dân Nguyễn Văn Hải, Phan Thanh Hải, Tạ Phong Tần, Phạm Thanh Nghiên muốn được tự do yêu nước, tự do ngôn luận phải chịu tù đày.

Còn những người bán danh dự đổi lấy danh tiếng là ai?

Có lẽ gần gũi, dễ thấy nhứt là Mít tờ Đàm và “Bác Hồ”. Mít tờ Đàm thì mới sương sương văn nghệ văn gừng mà thôi. Còn “Bác Hồ” là cao thủ võ lâm thượng thừa hơn cả Nhạc Bất Quần[5].

Một người dân thuộc địa xin vào học và làm việc cho thực dân Pháp không được nên phải ra đi tìm đường cứu đói. Sang tới Phú Lang Sa ông lân cận với các nhà đấu tranh giải thực để học đòi nhưng rủi thay ăn phải bả cộng sản. Thế là ông tự nguyện nhắm mắt làm tay sai cho chủ thuyết đại đồng, trên “đỉnh cao muôn trượng” đẩy trăm vạn thanh niên nam nữ làm mồi chiến tranh bảo vệ thành trì cách mạng vô sản, “lấy thân chèn pháo” che chắn phên dậu cho thằng láng giềng môi hở răng lạnh.

Giờ thì tài liệu lịch sử được giải mã ngoài ý muốn và ông bị lộ hàng.

Nào là tự vơ “Bản án chế độ thực dân Pháp[6] của các nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, rồi đạo chích “Ngục trung nhật ký[7] của bạn tù quá vãng, và luôn cả thổi ống đu đủ trong tự truyện “Vừa đi đường vừa kể chuyện” đánh bóng thân thế cá nhân.

Phó thường dân tui nói thiệt nghe. Tui thấy ông bây giờ nổi tiếng hơn xưa vì cũng có số má không thua gì giang hồ phố cảng hay anh chị bến bãi. Thời đó mà ông máu me quá mạng.

Ông sẵn sàng bán thí đồng bạn đồng hương tranh giành ảnh hưởng, sẵn sàng ám sát thanh trừng các lãnh đạo, chí sĩ, nhân hào[8] để độc tôn lãnh đạo, sẵn sàng ngoảnh mặt làm ngơ như người dưng kẻ lạ khi người cưu mang bị hoạn nạn do chính mình gây ra, sẵn sàng làm ngơ trước cái chết không nhắm mắt của bà Nông Thị Xuân người đã từng cận kề chăn gối, sẵn sàng để con ruột làm đứa mồ côi, sẵn sàng để thuộc hạ ký công hàm bán nước[9] để nhận viện trợ vũ khí làm con tốt đỡ đạn cho mẫu quốc Tàu phù.

Hồ Chí Minh và “vợ” Bà Nông Thị Xuân (nguồn: Bút Sử, “Những người đàn bà của HCM và mẹ của Nông Đức Mạnh là ai?”, 30/4/2009)

Hồ Chí Minh là một người từng trải, lăn lộn xứ người, chung đụng nhiều tầng lớp và học đủ mánh khóe để trở thành nổi danh. Ông ta không bao giờ trực tiếp nhúng tay và luôn phủi tay với tất cả mọi trách nhiệm, đổ lỗi cho thuộc hạ và cả thằng cơ chế. Ông là người dối mình thượng thừa, một tổ sư lừa lọc. Tất cả dối trá, lừa bịp đều được dùng để bảo vệ thương hiệu vị thánh tu “Bác Hồ”.

Nhưng kẻ giả hình có thể nào dấu mãi cái chân tướng thật của họ đến ngàn đời hông? Có những lúc nào đó bất chợt không kiểm soát được cái ngã (ngạo) mạn thật một trăm phần trăm sẽ vượt mặt và đánh rớt cái mặt nạ nho nhã tinh tường.

Nhà văn Phạm Thị Hoài vừa mới phân tích rất thuyết phục về danh xưng “Bác Hồ”[10] cho Hồ Chí Minh trên góc nhìn ngôn ngữ học, xã hội học và dân tộc học. Nhưng dù các luận điểm có tính khoa học chuẩn xác đến đâu chăng nữa nó vẫn trở thành sai hoàn toàn một khi tiền đề đã sai (hay đúng hơn là giả dối).

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt lừa dối vô tâm vì vận háo danh khiến một người nổi danh (tiếng) Hồ Chí Minh đã đánh mất danh (dự) chính ông.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt cái bệnh dịch lan nhiễm từ cá nhân ông Hồ Chí Minh cho đến đảng và các đồng chí tín đồ của ông.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt của đảng csvn toàn là những dối trá và lừa đảo, bạo lực và áp bức, độc tài và (nội) thực dân[11]. Lừa đảo đổi cách mạng dân tộc thành cách mạng vô sản. Tráo trở biến chính phủ liên hiệp (các đảng phái) thành chú phỉnh cộng sản búa liềm Mác-Lê. Cướp đất với cái mửng “cải cách ruộng đất”, cướp tài sản bằng chiêu “cải tạo thương nghiệp” hay “đánh tư bản mại sản”, và vẫn tiếp tục lập lại trò cướp đất, cướp của bằng quy hoạch và trưng thu đất đai cho cái gọi là “phát triển” với cú lừa khủng “sở hữu toàn dân”.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt của đảng csvn đã xỏ mũi, xách tai những “con” người làm phận nô đòi, làm văn nô tuyên truyền nghị quyết. Có cái chi để ai lại ngạc nhiên khi (phèng la) Đông La và Quý Thanh lại tiếp tục chiến sĩ thi đua vẩy mực, vấy máu vào Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Quang A và Nguyễn Thị Từ Huy.

Mèng đéc ơi bầy đàn văn nô quá xấu hổ sượng mặt nên quay đầu thóa mạ người khác là “trí thức bầy đàn”[12] cho đỡ nhục. Với phó thường dân tui thì chỉ mỗi thái độ lên tiếng bảo vệ con trẻ khỏi “tan đàn xẻ nghé” dưới nanh vuốt của sài lang hổ báo thì tui thấy họ có cái danh dự con người rồi.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt của đảng csvn vẫn tiếp tục cho ra lò những con vẹt biết nói và những con cáo con hồ.

Nguyễn Tấn Dũng nổi tiếng với câu nói “Nếu tôi không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay” nhưng lại đăng đàn “Tôi cũng không từ chối bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng, Nhà nước quyết định phân công, giao phó cho tôi. Tôi sẽ tiếp tục thực hiện và nghiêm túc thực hiện như tôi đã làm trong suốt 51 năm qua”.

Trương Tấn Sang cũng không kém quyết liệt với “cả đàn sâu”, “tập đoàn sâu” nhưng rồi quá phê và tự phê thành ra ầu ơ ví dầu cho ngẫu hứng qua cầu con sâu chúa “đồng chí X”.

“Bác Hồ” đã từng khóa môi với bà Nông Thị Xuân nhưng đảng ta kín hũ mắm thành ra đến mấy chục năm sau tới thời điểm nét này mới lộ hàng chớ còn “Mít tờ Đàm” thì trong tíc tắc đã hiển hiện trên gúc gồ chấm tiên lãng.

Cái anh chàng ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng này vừa mới nổi danh lên lại bày đặt thương hiệu “Mít tờ Đàm” rình rang tiếp thị! Có biết chước “Bác Hồ”[13] (à la Française) đã được HCM và đảng csvn sử dụng cho nó nốp (noble) từ khuya rồi chú em ơi!

 

© 2012 Vietsoul:21


[Loạt bài Phó Thường Dân: (1) Anh tám hồ hởi – (2) Nôị-thực-dân – (3) Sợ – (4) Kỳ đà – cắc ké – kỳ nhông – (5) Con dân – con cá – cò mồi – (6) Bình vôi – bái vật – bà đồng – (7) (Vô) Hậu  – (8) Gió mưa là chuyện của trời …  – (9) Vô liêm sỉ – man rợ – (10) Phế-anh-hùng – (11) Luật Lệ(nh) … (12) Nhà em có nuôi một con két … (13) Cái nhà là nhà của ta … (14) Mèo – thỏ (15) Phố Vẫy (17) Nín thở qua cầu (18) Bán Thân – Bán Thận – Bán Thần (19) Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm]


[5] Nhạc Bất Quần, chưởng môn Hoa Sơn kiếm phái của Ngũ Nhạc kiếm phái trong tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung, đã dẫn đao tự cung (tự thiến) để luyện Tịch Tà kiếm phổ. Lão đã lấy trộm Tịch Tà kiếm phổ rồi đổ mọi tội lỗi lên đầu đại đệ tử của mình là Lệnh Hồ Xung – nhân vật chính của Tiếu ngạo giang hồ – âm thầm luyện tập với âm mưu hợp nhất Ngũ Nhạc kiếm phái và lên làm chưởng môn. Nhạc Bất Quần được gọi là Quân tử kiếm nhưng thực sự lại là một kẻ ngụy quân tử, nhiều mưu mô. wikipedia

[11] (nội) thực dân, Vietsoul:21

[13] Người Tây phương theo nghi thức thì gọi người khác bằng họ thay vì gọi bằng tên: Monsieur Hồ, Mister Đàm. Bác Hồ thay vì Bác Minh.

Phạm Hồng Sơn – Tiến sĩ Nguyễn Quang A với “cụ Hồ”: Hơn một điều buồn

In Chính trị (Politics), Liên Kết on 2012/11/28 at 13:05

Trong phỏng vấn của RFI ngày 22/11/2012 vừa qua về việc Quốc hội Việt Nam ra nghị quyết về việc bỏ phiếu bất tín nhiệm các viên chức cao cấp của chính quyền, Tiến sĩ Nguyễn Quang A có bày tỏ hai quan điểm đáng ghi nhận. Thứ nhất, ông vẫn đặt một hi vọng và trông chờ sẽ có tiến bộ thực tế từ nghị quyết đó. Theo ông, khẳng định ngay bây giờ nghị quyết đó là có hay không có hiệu quả là một việc “hơi sớm.” Thứ hai, vào cuối cuộc phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Quang A đã trích dẫn và có ý lấy Hồ Chí Minh ra làm tấm gương để thúc đẩy tiến bộ, ông nói: “… Tất nhiên, không có gì có thể thay thế mạnh bằng quyền của người dân, được đuổi chính phủ’, như là lời của cụ Hồ đã nói nhiều chục năm trước, trong trường hợp chính phủ không làm được việc.

Về quan điểm thứ nhất, theo tôi có thể đó là sự thể hiện chân thành và thận trọng đến từ một nhãn quan nghiêng nhiều về lí thuyết hơn là thực tế. Mặc dù quan điểm của tôi ngược hẳn, cá nhân tôi vẫn trân trọng quan điểm đó của Tiến sĩ Nguyễn Quang A và cũng chỉ mong muốn thực tế sẽ cho thấy quan điểm của tôi là sai.

Về quan điểm thứ hai kể trên của Tiến sĩ Nguyễn Quang A thì tôi thấy hoàn toàn không ổn và rất đáng lo. Theo tôi, hiện nay nếu muốn đất nước có tiến bộ, có dân chủ thực sự hay thậm chí là chỉ muốn chính quyền phải cương quyết hơn với sự đe dọa, xâm lấn từ Trung Quốc thì chúng ta rất không nên lấy “cụ Hồ” ra làm tấm gương, trừ khi chúng ta không có đủ thông tin hoặc chỉ muốn có tiến bộ giả dối, nửa vời và chỉ muốn chính quyền vẫn lệ thuộc Trung Quốc. Chỉ cần xem lại một chút lịch sử chúng ta sẽ thấy điều này rất rõ.

Lãnh tụ nào và chính thể nào đã đưa vòng lệ thuộc, cống triều phương Bắc trở lại Việt Nam gần 80 năm sau khi sự phụ thuộc đó đã bị hủy bỏ hoàn toàn kể từ Hiệp ước Patenôtre 1884[i]? Còn lãnh tụ nào và chính quyền nào nếu không phải là chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắc những cây cầu “răng môi”, “núi liền núi sông liền sông” cho sự lệ thuộc, cống triều (kiểu mới) phương Bắc trở lại Việt Nam từ năm 1950?

Ai là người đã làm trưởng ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và sau đó cũng chính là người đã lại góp phần khai sinh ra Hiến pháp 1959 (ở miền Bắc) để đưa đất nước quyết tiến lên Chủ nghĩa Xã hội? Người nào có thể thay thế được Hồ Chí Minh ở những vai trò hệ trọng và tầm nhìn xa cho dân tộc như thế?

Ai là người đã ký sắc lệnh về biểu tình số 31 ngày 13/09/1946 để chứng tỏ với công luận quốc tế rằng chính thể lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một chính thể cũng biết tôn trọng quyền tự do bày tỏ của dân chúng, nhưng thực tế thì từ đó trở đi quyền biểu tình của người dân (đã được người Pháp cho thực hiện một phần trước đó) hoàn toàn chỉ còn được thực thi trên giấy? Nhà lãnh đạo nào có thể có sự bén nhạy ngoại giao và sự khéo léo chính trị đến thế trong việc nhấc hết đi những tự do của dân đã có trong thời thuộc Pháp, nếu không phải là Hồ Chí Minh?

Ai là người có thẩm quyền chính trị cao nhất đã để cho đất tư từ hàng ngàn năm biến hết thành đất “sở hữu toàn dân”, đã tiến hành cuộc “cách mạng long trời lở đất” ở nông thôn cách đây hơn nửa thế kỷ mà vẫn khiến lòng người hôm nay bấn loạn, hãi hùng, rồi cũng chính người ấy lại đưa tay chấm nước mắt tiếc thương nhưng vẫn giữ trọn ngai vàng cho tới lúc chết? Còn ai có thể có tài an dân và có cái tâm quyết liệt đến cùng cho quyền lực độc đoán đến thế ngoài “Bác Hồ kính yêu”?

Ai là người vừa là Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng cầm quyền trong lúc ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ bút ký một công hàm công nhận lãnh hải Trung Quốc bao phủ cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chắc chắn 54 năm chưa phải là thời gian quá lâu để mọi người quên mất người đó là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tại miền Bắc Việt Nam), kiêm chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam và là một chí hữu, một “người thầy vĩ đại” đương thời của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Nhưng việc chính quyền hiện nay vẫn không ngừng nghĩ ra nhiều kế sách, vẫn không tiếc tiền của (của dân) liên tục đầu tư vào việc tô vẽ, duy trì, tôn tạo sự sùng kính Hồ Chí Minh trong dân chúng như một bậc thánh, một vị Phật cứu nhân độ thế là vấn đề không có gì khó hiểu vì đó là logic tất yếu của mọi chế độ độc tài. Chúng ta cũng không nên phải quá phàn nàn hay quá đau buồn về những việc đó, vì họ là những kẻ cầm quyền thừa kế trong một chế độ phi dân chủ, họ là những người đã công khai sự quyết tâm và đòi hỏi cả dân tộc phải “sống, học tập và làm việc” theo tư tưởng, tác phong của một lãnh đạo độc tài. Họ là những người đang cố duy trì một thần tượng có thể tiếp tục gây mê hoặc, ru ngủ dân chúng trên con đường lầm lạc, độc ác chỉ có lợi cho họ.

Cái đau xót và đau buồn chính là việc những người bị trị, những người đang mất tự do, bị áp bức, những người không muốn đi theo cái ác lại vẫn quì lạy, sùng kính một con người đã đưa họ từ những xiềng xích thô kệch, rỉ sét sang những gông xiềng êm ả, tinh vi, bền chắc hơn, đã khai sinh ra một chế độ suy đồi mà họ đang ta thán, đã là một ông trùm của các thủ đoạn dân chủ giả hiệu vẫn được duy trì cho tới hôm nay, đã là một chuyên gia về các kỹ thuật mị dân lão luyện tới mức khiến cho cả một dân tộc đa phần vẫn cứ an tâm, ngáo ngác, trông đợi tự do trong gông cùm và thờ kính chính kẻ đã quàng vào họ bộ gông cùm mới.

Nhưng sự đau xót, buồn phiền đó có phần nào nguôi ngoai, và chúng ta cũng không nên trách cứ những người đó, nếu họ chỉ là những người “toan lo nghèo khó”, chưa quan tâm việc triều chính, không thể đọc được một vài ngôn ngữ Âu Mỹ hoặc không có khả năng cập nhật thông tin ngoài những gì nhà nước độc tài ban phát.

Song, Tiến sĩ Nguyễn Quang A hoàn toàn không thuộc số những người như thế. Ông không chỉ là một trí thức lớn trong xã hội hiện nay, một doanh nhân lớn thành đạt bằng thực lực mà còn làm ra và sở hữu một “tủ sách SOS2”. Ông là người đã từng góp ý, phê bình thẳng thắn với Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông cũng là người kĩ tính, theo tôi là đúng đắn, khi không hài lòng chữ “về” khi người khác dịch giới từ “to” (tiếng Anh) trong nhan đề The Road to Serfdom[ii] thành Đường về nô lệ. Ông là người gần đây rất quan tâm, rất ủng hộ nông dân bị cướp đất, rất nhiệt tình và sáng kiến trong việc chống “lưỡi bò” No U… Bản thân kẻ đang viết những dòng này cũng là người được ông “khai sáng” qua những dịch phẩm của ông như Hệ thống xã hội chủ nghĩa-chính trị kinh tế học phê phán, tổng quan kinh tế xã hội chủ nghĩa[iii], Lịch sử với những bài học[iv]

Đương nhiên động lực trong thể hiện ngưỡng mộ Hồ Chí Minh của ông Nguyễn Quang A không thể giống với động lực trong sự sùng kính, ngưỡng mộ, quì lạy mà những kẻ cầm quyền độc tài vẫn thường thao diễn, chào mời, rao giảng, ép buộc. Nhưng có sự ngưỡng mộ nào mà lại không góp phần làm cho thần tượng, đang ngày đêm được tôn tạo, to thêm ra, lại không làm cho sự sụp lạy, vốn đã còng lưng, thêm cúi rạp? Thế mà một người như Tiến sĩ Nguyễn Quang A lại lấy Hồ Chí Minh ra làm gương soi vào đúng lúc này. Đó chẳng phải là một điều thật đáng buồn lắm sao? Nhưng tôi tuyệt không tin vì thế mà chính quyền sẽ có những hành xử văn minh hơn đối với tất cả những thiện ý mà Tiến sĩ Nguyễn Quang A đã muốn và sẽ muốn dành cho xã hội. Thế mới là điều lo lại thêm vào điều đã rất buồn.

© 2012 Phạm Hồng Sơn & pro&contra

 


[i] Đây là hiệp ước kí kết giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn (Việt Nam) vào năm 1884, thường lấy theo tên gọi của viên công sứ người Pháp (Patenôtre). Hiệp ước này có 19 điều khoản, trong đó có điều khoản: nước Nam chấp nhận cho nước Pháp bảo hộ, có việc gì giao thiệp với ngoại quốc thì do nước Pháp chủ trì, nước Nam không phải thần phục nước nào nữa. Thực ra điều khoản vừa kể không khác mấy so với hai hiệp ước đã kí trước đó vào các năm 1874 và 1883, nhưng ở Hiệp ước Patenôtre có hai chi tiết đáng lưu ý: 1. Viên công sứ Pháp (ở Bắc Kinh), tức đại sứ, đại diện của chính quyền Pháp lúc đó, chủ động tới triều đình ở Huế để thương thảo. 2. Sau khi kí hiệp ước thì chiếc ấn của Trung Quốc phong cho các vương triều Việt Nam đã bị đem ra “thụt bễ nấu lên và hủy đi”. (Nguồn: Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử lược, quyển II, Bộ Giáo dục Trung Tâm Học liệu xuất bản, Sài Gòn 1971.)

[ii] Tác phẩm của Friedrich August Hayek (1899-1992), bản dịch của Phạm Nguyên Trường với nhan đề Đường về nô lệ, Nxb Tri thức (xem bản rút gọn tại đây), 2009; bản dịch của Nguyễn Quang A dịch với nhan đề Con đường tới chế độ nông nô

[iii] Tác giả Kornai János, Nguyễn Quang A dịch, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002.

[iv] Tác giả Kornai János, Nguyễn Quang A dịch, Nxb Tri thức, 2008.