vietsoul21

Posts Tagged ‘chiến tranh Việt Nam’

Vô vọng: Tại sao giới trí thức cánh tả không hiểu cộng sản

In Cộng Đồng on 2015/12/09 at 21:59
Lost Cause: Why Intellectuals of the Left miss Communism

Los Angeles Times, Ngày 14 tháng 1 năm 1996 | TODD GITLIN |

Vài lời về tác giả:

Todd Gitlin là học giả, nhà văn, nhà xã hội học, nhà thơ, và một trí thức bộc trực, và là tác giả của mười lăm quuyển sách. Một trong các cuốn sách nổi tiếng của ông là “Hoàng hôn của giấc mơ chung: Tại sao nước Mỹ bị hủy hoại bởi Chiến Tranh Văn Hóa” (Nhà Xuất Bản Metropolitan / Henry Holt).

Ông tốt nghiệp cử nhân toán tại Harvard, lấy bằng Cao Học môn khoa học chính trị, và Tiến Sĩ môn xã hội học tại Đại học California, Berkeley. Ông là chủ tịch thứ ba của Hội Sinh Viên Đấu Tranh Cho Một Xã Hội Dân Chủ  vào năm 1963-1964, và là điều hợp viên của Dự án Nghiên cứu Hòa bình và Giáo dục SDS vào khoảng 1964-1965. Trong thời gian đó ông đã tổ chức các cuộc biểu tình đầu tiên toàn quốc chống lại cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông cũng là người Mỹ đầu tiên có mặt trong các cuộc biểu tình chống lại các doanh nghiệp đã viện trợ cho chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi. Trong thời gian 1968-1969, ông Gitlin là một phóng viên/biên tập viên cho San Francisco Express Times, và từ đó cho đến năm 1970 ông đóng góp thường xuyên cho báo chí đấu tranh bí mật. Trong 2003-2006, ông là thành viên của Hội đồng quản trị của tổ chức Greenpeace tại Hoa Kỳ. Ông hiện là giáo sư của ban báo chí và xã hội học, và là khoa trưởng của chương trình Tiến sĩ môn Truyền thông tại Đại học Columbia, New York.

Ba năm trước đây trong một bữa tiệc sinh nhật, cuộc trò chuyện chuyển sang vụ Bosnia. Chúng tôi sáu người ngồi cùng bàn, các nhà báo và các học giả, bạn bè phong trào Tân Cánh Tả. Chúng tôi đã từng đi diễu hành chống việc chế bom H và ủng hộ quyền dân sự và chống chiến tranh Việt Nam. Chúng tôi lái xe cả đêm để đến được các buổi họp tại những vùng xa xôi hẻo lánh nhằm thực hiện kế hoạch tập hợp các lực lượng lèo tèo ít ỏi đôi khi của mình vì một mục đích tốt đẹp. Trong những năm tháng đó, ít khi nào chúng tôi bất đồng với nhau. Nhưng khi cuộc thảo luận chuyển sang vụ Bosnia, chúng tôi đã không còn ngồi dù chung một bàn. Một số người, bao gồm cả bản thân tôi, muốn Hoa Kỳ ném bom người Serbs đang pháo kích vào Sarajevo ở Bosnia; những người khác thì cho rằng Mỹ không có cơ ngăn gì để can thiệp vào chuyện này. Không còn điều gì rõ hơn nữa là lúc đó phe cánh Tả đã tan vỡ, ít nhất là trong vấn đề đối ngoại.

Những đam mê và tranh luận của giới trí thức – phe tả, phe hữu và thành phần khác nào đó– đưa đến cách định hình về các điều khoản mà trong đó toàn nền dân chủ mặc cả cho định mệnh của nó. Các cuộc thảo luận của giới trí thức cánh tả về Tây Ban Nha năm 1936 đã tạo tiền chất cho thế chiến đệ nhị; các cuộc tranh luận về (chiến tranh) Việt Nam có lẽ đã ngăn được lạm phát lớn những năm 1970. Vì vậy, sự thất bại của giới trí thức khi không xem vấn đề Bosnia là nghiêm trọng đã gây một tác động rất lớn.

Một chính sách chung từ giới trí thức cánh tả cho vấn đề Bosnia – hoặc Haiti hay ngay cả Rwanda – đã không thành, và vẫn chưa hề có. Bởi vì một khi bạn thuộc phe tả – phe tin vào sự bình đẳng – thì không hẳn nhất thiết chỗ đứng của bạn về một vấn đề chính sách đối ngoại nhất định sẽ là X, Y hay Z.

Tây Ban Nha, Cuba, Việt Nam, Nicaragua, El Salvador – vào những thời điểm khác nhau – chính là căn cơ cho toàn cánh tả và giới trí thức. Nếu có những chia rẽ, căng thẳng, mơ hồ thì việc khó khăn là làm thế nào để bộc lộ bày tỏ sự đồng cảm của mình với người ở nơi nào đó trên thế giới được chính xác, nhất là trước các bằng chứng quá tồi tệ của các đảng cộng sản – chẳng hạn như về những gì đảng Cộng sản Tây Ban Nha đã làm? Cần bao nhiêu tha thứ cho Cộng Sản Bắc Việt, hoặc mặt trận giải phóng Sandanistas?. Và rốt rồi, hầu hết trí thức cánh tả đạt một thỏa thuận chung về những gì mà Hoa Kỳ cần phải làm. Quốc gia này đáng lẽ phải can thiệp vào Tây Ban Nha, bảo vệ  sự thành lập nước Cộng hòa một cách hợp pháp chống lại các cuộc tấn công của quân phát xít vào năm 1936; đáng lẽ không nên tập kích vào Vịnh Con Heo, không nên mưu sát Fidel Castro, không nên tham dự vào Việt Nam, hay không nên trang bị cho lực lượng Contras.

Khối trí thức cánh tả–trong mọi hóa thân biến dạng của nó ở thế kỷ 20–vẫn kiên quyết phải cưu mang chủ nghĩa quốc tế. Khối ấy không tin rằng đại loại có những “người ở xứ hóc bò tó mà ta không hề biết tới”. Đấy là ngôn ngữ mà Thủ tướng Anh Neville Chamberlain đã dành cho Tiệp Khắc năm 1928 – và là loại ngôn từ mà không một người theo chủ nghĩa quốc tế đầy tự trọng có thể nói mà không ngượng ngùng. Nghĩa vụ của những người giới cánh tả là phải biết về các dân tộc xa lắc. Vô minh không thể cho là hạnh phúc và cũng không coi là chứng cớ cho ngoại phạm. Nếu bạn không thể phân biệt các tay chơi không có thẻ điểm thì bạn buộc phải kiếm một bảng điểm khá hơn.

Hiện tượng ấy dẫn đến những buổi tối mà những ai thiên tả học hỏi được ngay, thí dụ như việc giết người thổ dân ở Guatemala hơn là phải mãi miết tìm cả năm trời qua các tờ báo Mỹ. Tệ nhất là các buổi tối trở thành rập công thức đến độ nhàm chán khi nghe tin mới nhất về “cuộc đấu tranh ở Mozambique.” Thường thường những gì trí thức tả khuynh (cũng như ngay cả giới trí thức hữu khuynh) tưởng là họ biết về các dân tộc xa xôi thì tất nhiên sai lầm đến chết người. Họ đã quá háo hức mong tương lai mở ra. Họ khát khao đến độ tin rằng một số khuôn phép nhân phẩm đang được gầy dựng vun đắp tại một nơi nào đó trên thế giới, thích nhất nếu đang xảy ra ở một vùng khuất lấp mù mịt nào đó nơi mà dáng dấp của dân chúng trông là lạ. Những người Cộng Sản và đồng hành của họ thì hát “Giai cấp công nhân quốc tế sẽ đại diện cho nhân loại,” – và nhiều người độc lập thiên xã hội chủ nghĩa cũng thế nhưng lại nghĩ rằng những người cộng sản đã phản bội giai cấp công nhân quốc tế. Trong khi những kẻ tôn thờ tiệc tùng, bọn giả định, thứ kiêu ngạo về vinh quang và lũ ảo tưởng nhiều thứ khác đang bị chế nhạo tuốt tuồn tuột, thì cũng là khi niềm đam mê cho toàn thể nhân loại, và sự cảm kích dành cho những ai có vẻ khác mình trở thành một đặc tính vinh dự và cần thiết.

George Orwell, người bị bọn phát xít Tây Ban Nha bắn vào cổ họng và biết phe cánh tả của ông ta bị các tên cộng sản buộc tội là đi theo phía tướng Francisco Franco vì sự đau đớn của mình, thậm chí đã viết: “Cuộc chiến tranh này… đã để lại cho tôi những hồi ức toàn là ghê rợn, nhưng tôi không hề muốn bỏ lỡ nó. Khi bạn đã nhìn thấy một thảm họa như thế – và dù nó kết thúc như thế nào, cuộc chiến tranh Tây Ban Nha sẽ vẫn là một thảm họa kinh hoàng, ngoài những thảm sát và đau khổ về thể chất – kết quả không nhất thiết phải là vỡ mộng và hoài nghi. Kỳ lạ thay, toàn bộ kinh nghiệm đã để lại cho tôi không ít mà chí nhiều thêm niềm tin vào nhân phẩm của con người.” Orwell, dù không phải là kẻ khờ, không cách chi hiểu được KGB đã tích cực cỡ nào trong sự nghiệp của nền Cộng hoà (Tây Ban Nha); và đặt trường hợp ông không ngạc nhiên khi biết phe chính nghĩa đã thỏa hiệp như thế nào, ông chắc cũng vẫn đổ lỗi cho phương Tây là đã bỏ rơi để nền Cộng hòa (Tây Ban Nha) lọt vào tay thô bạo của Joseph Stalin.

Thập niên 60 tuần tự đưa đến sự xác định hai lý tưởng: dân quyền và phản chiến. Nếu bạn thuộc phe cánh tả, bạn đã biết lập trường mình là gì. Ác độc là dùi cui điện, ác độc là bom napalm. Bạn muốn gửi quân đội đến vùng Mississippi và phải rút khỏi Đà Nẵng. Dẫu đã có bao cái nhìn ngây ngô về các đối thủ người Việt (cũng như về những người Việt Nam đồng minh với chính khách Washington), nhưng trí thức cánh tả vẫn thống nhất trong quan điểm người Mỹ không việc gì phải đánh nhau với người Việt Nam yêu nước – dù họ là cộng sản. Quan điểm này lậm hơn cả một niềm tin và đã trở thành cách sống của hàng trăm ngàn người. Nó đã gây ra các bản án tù tội, lưu đày, xa lánh, và hoài nghi cao độ đối với chính phủ (Hoa Kỳ). Cuộc chiến (Việt Nam) và phong trào phản chiến đã phá vỡ, rồi có lẽ, tái tạo lại tinh thần dân tộc. Đối với cánh tả, chiến tranh củng cố cái mệnh đề đơn giản nhất thiết rằng chống cộng thì phải là say sưa giết người. Mệnh đề phải đơn giản tận cùng như thế vào lúc đó.

Trong gần nửa thế kỷ, Chiến tranh Lạnh là ý thức hệ cho các tổ chức phe thiên tả khắp mọi chốn. Nếu bạn là một trí thức cánh tả, bạn biết rằng Liên Xô không chỉ là quốc gia có quyền lực đáng sợ nhất, có sức mạnh tàn nhẫn nhất trên thế giới. Bạn cũng biết về cuộc đảo chính mà CIA tài trợ ở Iran, Guatemala, và Indonesia. Dẫu cho bạn băn khoăn về chủ nghĩa cộng sản, bạn thừa biết không thể đổ lỗi cho cộng sản về nạn phân biệt chủng tộc tại Nam Phi, hay những tàn dư của chủ nghĩa thực dân Bồ Đào Nha, hoặc hội đồng dân sự của Argentina hay Chile. Bạn biết nhiều lỗi lầm của các pháp nhân và chính sách Hoa Kỳ . Nếu lo sợ về các cuộc chạy đua vũ trang tại Mỹ, bạn thành đồng minh với những thành phần ngược lại khắp chốn – tại châu Âu, trong thế giới thứ ba, thậm chí ở Đông Âu và Trung Âu.

Sau đó thì chiến tranh lạnh tan rã, chủ nghĩa cộng sản sụp đổ và trí thức cánh tả bị đẩy vào chỗ hỗn loạn. Chủ nghĩa chống can thiệp–một loại chính trị vô nghĩa–vẫn được duy trì. Sự chia rẽ trong hàng ngũ trí thức này đã lộ rõ qua sự kiện chiến tranh vùng Vịnh – cả cánh tả ở châu Âu và Hoa Kỳ đều bị chẻ làm hai. Những ai nhìn Kuwait thì thấy Việt Nam và hồn ma của Lyndon B. Johnson. Kẻ khác thấy Munich thì nghĩ đến hồn ma của Chamberlain. Thế thì quốc gia siêu cường này là ai vậy? Một đế chế đê tiện cuối cùng bùng nổ? Một nguồn quyền lực có đáng tin cậy trong vấn đề can thiệp nhân đạo?

Phe cánh tả ở châu Âu lại bị chia rẽ đến độ thê thảm qua sự kiện Bosnia. Lần này sự chia rẽ và tháo lui xuống tới mức bỏ rơi, bởi vì đáng lẽ quốc gia của họ có thể thay đổi được tình hình. Các nhà hoạt động trí thức cánh tả tại Anh như EP Thompson không thể tin rằng người Serbia–đồng minh một thời chống lại phát xít Croatia của họ–đã phạm tội một cách hệ thống hóa.  Tại Pháp, một nỗ lực vào năm 1991 nhằm tổ chức một phe đấu tranh nhằm can thiệp qua khẩu hiệu “Châu Âu bắt đầu ở Sarajevo” đã sụp đổ lập tức vì các chiến thuật hỗn độn. Giới trí thức, bao gồm cả các ngôi sao truyền thông Bernard-Henri Levy và Andre Glucksmann, đe dọa phản đối cuộc bầu cử Nghị viện Âu châu, rồi sau đó (theo nguồn tin của kẻ chống đối họ) đã lùi lại, và thỏa hiệp bởi vì họ sợ mất quyền tiếp cận với chính quyền Francois Mitterrand trong chính sách thiên người Serbia rất hiệu quả. Đến đầu năm 1995, chỉ một vài nghìn người đổ về tham gia các cuộc biểu tình ủng hộ sự can thiệp ở Paris. Tại Đức, khi Danny Cohn-Bendit (hay 1968 của “Danny Đỏ,” và bây giờ là lãnh đạo đảng Xanh) kêu gọi sự can thiệp của quân đội Đức thì các nhà cựu hoạt động tiên phong khác cực lực phản đối.

Trong khi đó, trí thức cánh tả Mỹ sụp đổ tan vỡ thành những mảng lẩn quẫn trong bối rối và nản lòng. Chăm lo vun trồng cho cái bản sắc bị phân tán ấy thành chuyện dễ dàng hơn là việc công nhận sức mạnh quân sự của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương có thể làm được điều gì khả dĩ. Cái vũng lầy đạo đức này là nỗi buồn có thật đằng sau bài tiểu luận “Bi ca cho Bosnia” gần đây của Susan Sontag.

Sontag quả là nói đúng khi cho rằng trong vòng bốn năm đại đa số trí thức trên toàn thế giới đã ruồng bỏ [ý thức hệ cánh tả]- dù bà đã tha không đề cập đến một số người Mỹ tên tuổi từng một thời là những người cố hết sức ủng hộ chuyện can thiệp, ví dụ như Stanley Hoffmann và Robert Jay Lifton. Người Mỹ duy nhất mà bà trừng phạt nêu tên là Noam Chomsky – người lúc nào cũng khăng khăng việc Hoa Kỳ đã bị ô uế vì chủ nghĩa đế quốc là điều không thể chối cãi được, và người cho rằng Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm về hiện tượng trở thành trơ chai của cánh tả Mỹ hơn bất kỳ giới trí thức nào khác. Chỉ vài thành phần thuộc đảng Dân chủ có ý ép chính quyền Clinton dội bom hầu mong có thể ngăn cản người Serbia. Cuối cùng chỉ còn mỗi Thượng nghị sĩ Bob Dole (thuộc Đảng Cộng Hòa tiểu bang Kansas) thúc đẩy hủy bỏ cấm vận vũ khí cho Bosnia.

Chẳng có xu hướng chính trị nào có thể lộ vẻ tươi đẹp dưới luồng ánh sáng khủng khiếp rọi soi những gì cứ để xảy ra trên đất Nam Tư cũ (đa phần là trên truyền hình!) trong suốt nhiều năm. Tất nhiên, trí thức cánh tả không muốn chỉ là một phe phái. Họ muốn mình là giới ưu việt. Nhưng không phải vậy! Cái ước muốn đó của trí thức cánh tả sẽ bị ám ảnh mãi mãi bởi vị trí mà họ ruồng bỏ một cách đáng hổ thẹn.*

Nguồn: Los Angeles Times, 14/1/1996

Có nhiều điều đáng giá trong quyển “Cuộc chiến của Hà Nội”

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Thế giới, Việt Nam on 2013/04/18 at 22:36

“chiến thắng của Hà Nội không phải vì kiên trì và ngoan cường, không phải vì họ chinh phục được con tim và trí óc người dân miền Nam, không phải do những hy sinh to lớn của quân đội và nhân dân miền Bắc Việt Nam, và cũng không phải vì nội tình chính trị nước Mỹ trói tay và làm suy yếu các nỗ lực của Mỹ, nhất là dưới thời Nixon. Chiến thắng của Hà Nội chính là do sức ép không khoan nhượng và không thể cưỡng lại của khối quốc gia hậu thuộc địa, các quốc gia thế giới thứ ba, và nhiều quốc gia phản chiến cũng mong muốn dạy cho Mỹ một bài học và đã bị dẫn dắt bởi tuyên truyền và ngoại giao khôn ngoan của Hà Nội”

Richard Coffman

Phòng Thủ Tốt Nhất – Văn phòng về chiến tranh Việt Nam

Cuộc chiến của Hà Nội là một cuốn sách quan trọng dựa vào các hồ sơ lưu trữ bí mật của chính phủ và Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuốn sách này biên niên về cách Hà Nội lên kế hoạch và tiến hành chiến tranh ở Việt Nam sau khi Pháp thua trận và rút khỏi Đông Dương năm 1954.

Hơn thế nữa, cuốn sách làm nổi rõ các bất đồng nghiêm trọng ở cấp cao nhất tại Hà Nội về ưu tiên, chiến lược, và các nguồn lực bên cạnh những thứ khác đã làm hỏng sự chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 và dẫn đến vụ bắt giữ và thanh trừng. Nếu Washington và Sài Gòn có một bức tranh rõ ràng hơn về điều này lúc đó thì cuộc chiến chắc chắn sẽ được tiến hành khác đi và kết quả cũng có thể là thuận lợi hơn. Có thể công bằng để nói rằng chúng ta chẳng biết nhiều về lãnh đạo của Hà Nội lúc đó như chúng ta biết gì về lãnh đạo Bắc Triều Tiên ngày hôm nay.

Như vậy, cuốn sách này cho thấy chiến dịch ném bom của Mỹ ở Bắc Việt Nam và các cuộc hành quân đường bộ vào các chiến khu, cơ sở cộng sản ở Campuchia và Lào đã gây thiệt hại khá nặng vào nỗ lực chiến tranh của Hà Nội. Nó tiếp tục cho thấy sự thất bại hoàn toàn và chi phí khổng lồ của những cuộc tấn công lớn của Hà Nội trong năm 1968, 1969, và năm 1972 đã buộc miền Bắc phụ thuộc nhiều hơn vào Liên Xô và Trung Quốc và cuối cùng là tham gia vào các cuộc đàm phán để cho lực lượng Mỹ rút quân.

Tác giả, Nguyễn T. Liên-Hằng, là người Hoa Kỳ gốc Việt Nam và là giáo sư tại Đại học Kentucky, được tiếp cận với vô số tài liệu lưu trữ chính thức bằng tiếng Việt, nhiều cá nhân, và bản thảo chưa được công bố. Trong số nhiều người, cô phỏng vấn ông Hoàng Minh Chính, lý thuyết gia cộng sản hàng đầu một thời của Bắc Việt Nam và cũng là nhà bất đồng chính kiến ​​bị thanh trừng. Cô đã truy cập cuốn hồi ký chưa được công bố của người vợ cả Bí thư đảng cộng sản Lê Duẩn, người đã hoạt động công tác ở đồng bằng sông Cửu Long trong nhiều năm

Cô Liên-Hằng không những chỉ khai phá lối đi mới nhưng sắp xếp tổ chức tốt, lập luận rõ ràng, cũng như xử lý trình tự thời gian các văn bản của cuộc chiến tranh Việt Nam và đường hướng của Hà Nội. Độc giả sẽ biết ơn khả năng viết và tổ chức của tác giả trong rừng các tài liệu cơ bản dày đặc này, và nhất là cô ấy đã tuyên bố rõ ràng rằng các tài liệu lưu trữ cô xem xét đã bị tẩy rửa và chắc chắn là không đầy đủ.

Đối với học sinh nghiên cứu về ý thức hệ cộng sản và chiến thuật, Cuộc chiến của Hà Nội mô tả sự thăng tiến đến đỉnh cao quyền lực của nhà lãnh đạo cộng sản Lê Duẩn và người thân tín là ông Lê Đức Thọ, và sự tụt thoái quyền lực ra bên lề của Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thật vậy, hai anh hùng nổi tiếng thế giới với cuộc cách mạng cộng sản Việt Nam mà ai cũng tưởng rằng có quyền lực vô biên ở Hà Nội lại bị cho ra rìa trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Ông Giáp thì căm tức, cay cú ở Hungary còn ông Hồ thì ngồi chơi xơi nước tại Bắc Kinh.

Chúng ta được biết thêm rằng mặc dù Lê Duẩn liên tục thất bại cả về chiến lược và chiến thuật trong chiến tranh ở miền Nam, thiệt hại nặng nề nhân lực và phá nát gần như hoàn toàn nền kinh tế miền Bắc, ông vẫn nắm giữ quyền lực nhờ đàn áp dã man và không ngừng. Ngay cả trước khi Hà Nội Hilton nổi tiếng vì giam cầm phi công Mỹ,  nhà tù này chứa hàng chục đối thủ chính trị và bất đồng quan điểm ​​với Lê Duẩn, dù là thực sự hay tưởng tượng. Cuộc thanh trừng triệt hạ các sĩ quan quân đội cấp cao thân cận với Giáp và ngay cả một số người giúp kế hoạch cuộc Tổng tấn công.

Những điều trên và một số điểm khác tiếp theo trong cuốn sách này phải làm giới tình báo phương Tây, các quan sát viên ngoại giao, nhà báo, nhà sử học, các viện nghiên cứu, và phe cánh tả quốc tế nhún nhường, khiêm tốn hơn vì những người này có quá nhiều đánh giá sai lầm về Bắc Việt Nam lúc đó và những nhận định và giải thích sai lầm ấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Thật rõ ràng đây không phải là lịch sử xét lại. Phụ đề của cuốn sách tiết lộ cho chúng ta thấy chút đầu mối về thiên hướng của tác giả: “Lịch sử quốc tế về chiến tranh vì hòa bình ở Việt Nam.”

Tác giả vẫn kiên định để mô tả cuộc chiến tranh Việt Nam là “không thể thắng được” đối với Hoa Kỳ. Điều này chắc chắn phải là một tin nóng tới tai các sử gia đương đại nổi tiếng như Lewis Sorley và Mark Moyar, mà gần đây các nghiên cứu của họ dù không có tư liệu gốc về các lủng củng của Hà Nội, đã khẳng định rằng kết cuộc ở Việt Nam chưa hẳn đã phải là như vậy. Thêm vào đó, cô ấy có một ác cảm mãnh liệt đối với Richard Nixon và Henry Kissinger, ngay cả khi mô tả rất tinh tường và chi tiết cách họ cùng lúc ảnh hưởng cả Moscow và Bắc Kinh ép Hà Nội – và chống lại bản năng sâu bén của ông Lê Duẩn – để có được những thỏa thuận tốt nhất hầu tách Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam.

Thật vậy, Lê Duẩn chuộng những cuộc tấn công lớn để khích động cuộc tổng nổi dậy quần chúng ở miền Nam nên ông đã gửi Lê Đức Thọ, cánh tay phải của mình, đến Paris nhằm giữ kín các cuộc đàm phán. Điều này rập khuôn mẫu của Lê Duẩn luôn chỉ định các tướng đáng tin cậy để chỉ huy những người cộng sản miền Nam cứng đầu luôn tin rằng cuộc cách mạng của họ đã bị phản bội bởi Hiệp định Genève năm 1954. Thật là mỉa mai – hay ngoan cố – để xem rằng Lê Đức Thọ đã giành giải Nobel Hòa bình vì thành tích của ông ta ở Paris.

Cuối cùng, cô cho rằng chiến thắng của Hà Nội không phải vì kiên trì và ngoan cường, không phải vì chinh phục con tim và lý trí người dân miền Nam, không phải do những hy sinh to lớn của quân đội và nhân dân miền Bắc Việt Nam, và cũng không phải vì nội tình chính trị nước Mỹ trói tay và làm suy yếu các nỗ lực của Mỹ, nhất là dưới thời Nixon. Chiến thắng của Hà Nội chính là do sức ép không khoan nhượng và không thể cưỡng lại của khối quốc gia hậu thuộc địa, các quốc gia thế giới thứ ba, và nhiều quốc gia phản chiến cũng mong muốn dạy cho Mỹ một bài học và đã bị dẫn dắt bởi tuyên truyền và ngoại giao khôn ngoan của Hà Nội. Đấy có lẽ là di sản lớn nhất của cuộc chiến của Hà Nội và là khuôn mẫu cho những ai đang dự định các chiến dịch cách mạng trong tương lai chống lại quyền lực phương Tây.

Kết luận bay bổng trên chỉ hơi làm giảm đi những gì có thể được xem như là một đóng góp quan trọng và độc đáo cho sự hiểu biết của chúng ta về những gì chúng ta phải đối mặt tại Việt Nam. Sinh viên ngành lịch sử quân sự, chiến tranh Việt Nam, và chủ nghĩa cộng sản cách mạng có nhiều thứ để trông mong từ những tài liệu lưu trữ được khai thác đầy đủ hơn trong những năm tới.

Richard Coffman từng là sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến tại Chu Lai và Đà Nẵng, thời Việt Nam Cộng Hòa năm 1965-1966. Sau đó ông phục vụ ở cơ quan CIA trong 31 năm, chuyên phân tích về các lãnh đạo Bắc Việt từ năm 1967 đến năm 1972.

Nguồn: Foreign Policy (Tạp chí Chính Sách Ngoại Giao)

Bài liên hệ: Đập tan các huyền thoại về Việt Nam