vietsoul21

Posts Tagged ‘khủng bố’

Uwe Siemon-Netto – Phía Sai Trái Đã Thắng

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Liên Kết, Việt Nam on 2014/03/11 at 22:46

BBT:  Dưới đây là bản dịch của VietSoul:21 cho một bài luận mang tính tổng hợp mới đây mang tựa đề The wrong side won của Tiến Sĩ người Đức Uwe Siemon-Netto.

Đây cũng là bài dịch thứ ba của chúng tôi trong loạt bài viết liên quan đến một cựu phóng viên quốc tế người Đức đã tường thuật nhiều sự kiện lớn trên thế giới trong vòng 57 năm chẳng hạn như việc xây dựng và sự sụp đổ của bức tường Berlin, cuộc chiến 6 ngày giữa Ả Rập và Do Thái, cuộc Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Cộng, và vụ ám sát Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy.

Ông Siemon-Netto nguyên là tổng biên tập về tôn giáo của United Press International, hiện là bình luận gia quốc tế và một nhà thần học (không phong chức) của đạo Lutheran. Ông là sáng lập viên của Center for Lutheran Theology and Public Life (CLTPL) và chủ tịch của tổ chức “The League of Faithful Masks” đặt bản doanh tại Capistrano Beach và trường Concordia University Irvine, California.

Với tư cách một nhà báo, ông chuyên về những đề tài liên quan đến niềm tin, xã hội và ngoại giao. Ông hiện là cộng tác viên thường trực của tờ “The Atlantic Times,” một tờ báo tiếng Anh hàng đầu của giới báo chí Ðức tại Mỹ.

Mối quan hệ của ông Siemon-Netto đối với Việt Nam rất mật thiết. Trong khoảng thời gian năm năm (từ năm 1965 cho đến năm 1969 và sau đó một lần nữa vào năm 1972) với tư cách phóng viên chiến trường tại Việt Nam, ông đã chứng kiến tội ác Việt Cộng tại Huế kỳ Mậu Thân 1968, trong đó một số người quen của ông là 3 bác sĩ người Ðức cùng với vợ của một người đang làm việc thiện nguyện tại trường Y Khoa Huế đã bị thảm sát. Ông còn là nhân chứng của một số xung đột khủng khiếp, đặc biệt là trận chiến đẫm máu tại thung lũng “Ia Drang” trong năm 1965.

Sau hai bản dịch cho các điểm sách của Michael PotemraJoseph Reitz, chúng tôi chọn dịch tiếp bài thứ ba là bài viết của chính tác giả vào cuối năm vừa rồi trên tạp chí The American Legion–một tạp chí chuyên về các đề tài liên hệ đến các cựu chiến binh Hoa Kỳ.

Trong bài viết này ông đã dùng ngòi bút qua kinh nghiệm xương máu tại chiến trường Việt Nam để mô tả tội ác khủng khiếp của Cộng sản. Ngoài các chuyện kể cảm động từ các nhân chứng đã sống trong những giây phút cuối cùng của tháng 4 năm 1975, ông kể lại cảm xúc của mình đối với thành phần sinh viên và trí thức cánh tả với rừng cờ Mặt Trận GPMNVN khi đang sống tại Paris trong cùng khoảng thời gian đó.

Ông cũng không quên phê phán thái độ không trung thực của giới truyền thông Hoa Kỳ vào thời kỳ chiến tranh ấy. Ông còn dùng dẫn chứng để bạch hóa chuyện phương Tây không có các phương tiện tâm lý và chính trị để chống lại một cuộc chiến tranh kéo dài.

Đọc bài viết này chúng ta có thể thấy được tại sao sau hơn nửa thế kỹ mà tác giả vẫn không thể quên vô số nạn nhân vô tội do Cộng sản gây ra trước và sau khi có cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam bắt đầu từ năm 1975. Đây là bài viết dựa vào quyển hồi ký mới của nhà thần học này mang tựa đề Đức: A reporter’s love for a wounded people xuất bản vào năm ngoái 2013.

Ngay đầu cuốn hồi ký ông đã viết những chuỗi dòng thương nhớ tưởng niệm sau đây:

Tưởng niệm

Cuốn sách này được viết nhằm tưởng nhớ vô số các nạn nhân vô tội trong cuộc xâm chiếm Miền Nam Việt Nam bởi Cộng sản, đặc biệt là:

– Hàng trăm ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị tàn sát trong các làng mạc và thành phố, nhất là tại Huế;

– Hàng trăm ngàn chiến sĩ và công cán chính VNCH đã bị hành quyết, tra tấn hoặc bỏ tù sau khi chiến tranh kết thúc;

– Hàng triệu người đã bị xua đuổi ra khỏi quê hương và hàng trăm ngàn người đã bị chết đuối trong quá trình đi tìm tự do;

– Các chiến sĩ VNCH đã anh dũng chiến đấu khi đã mất tất cả và các tướng lãnh oai hùng đã quyên sinh vào những giờ phút cuối cùng;

– Các thanh niên miền Nam và Bắc Việt Nam động viên vào quân ngũ đã bỏ mạng trong cái gọi là “chiến tranh giải phóng” nhưng đã không mang lại tự do cho ai;

– 58.272 binh lính Hoa Kỳ, 4.407 Đại Hàn, 487 Úc; 351 Thái và 37 Tân Tây Lan đã hy sinh tại Việt Nam ;

– Các đồng hương người Đức của tôi, trong đó có BS Horst-Günther và Elisabetha Krainick, BS Alois Alteköster, BS Raimund Discher, GS Otto Söllner, Bá Tước Hasso Rüdt von Collenberg và nhiều người khác đã đến như những người bạn và phải trả giá bằng mạng sống của họ.

Trong tư cách một phóng viên và nhân chứng lịch sử, tác giả sau đó đưa ra các dữ kiện tình tiết liên quan đến nạn nhân của một cuộc chiến mà bên sai trái đã thắng và chia xẻ nhiều kỹ niệm khó quên trong suốt hồi ký của mình.

Qua các phân tích và chứng minh chiến thắng của Cộng sản Việt Nam đặt trên căn bản của tội ác, ông không chấp nhận chiến thắng đó là một cuộc giải phóng. Ông đàm luận rằng phe sai trái đã thắng nhờ vào khủng bố, tàn sát và phản trắc.

Hồi ký của ông đã được ra mắt tại quận Cam tại California vào dịp Quốc Hận năm ngoái với hai phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt. Phiên bản tiếng Việt là Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc nhiều đau thương được hai biên tập viên của Diễn Ðàn Cựu Sinh Viên Quân Y dịch. Hai cựu sinh viên quân y này là Nha sĩ Lý văn Quý tại Little Saigon/Quận Cam và Dược Sĩ Nguyễn Hiền tại Hòa Lan đã “dịch vừa sát nghĩa vừa đượm hồn Việt”. Quý vị có thể tham khảo videobài nói chuyện của tác giả (hay bản dịch tiếng Việt) trong dịp sinh hoạt này của Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y với sự hỗ trợ của tổ chức Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ và Tù Ca Xuân Điềm.

Phiên bản tiếng Đức đã xuất hiện và bản tiếng Anh vừa tái xuất bản vào năm nay với nhiều bổ túc và sửa chửa. Điều bắt mắt là tít cho bìa tiếng Đức, “Mein Vietnam. Warum die Falschen siegten”–tạm phỏng dịch “Việt Nam của tôi: Tại sao bọn Sai Trái lại chiến thắng?”. Ngược lại trong lần tái bản tiếng Anh này thì ông đã cho đặt thêm cụm từ “Vinh quang của sự Phi Lý” (Triump of the Absurd) lên tựa đề ngoài bìa sách và xử dụng thuật ngữ “bị bỏ rơi” thay vì “nhiều đau thương” khi nói đến dân tộc Việt Nam.

Một số chương mẫu (Preface, Chapter 1-“Comme la mer, comme le ciel”, and Epilogue) trong nguyên bản tiếng Anh có thể tìm thấy trên trang nhà của tác giả. Quý bạn cũng có thể tìm đọc các chương mẫu bằng Việt Ngữ tại các trang mạng nối sau đây:

Chương 1: Như biển cả, như bầu trời

Chương 15: Tết Mậu Thân: Hỏa ngục Huế

Đoạn kết: Hậu quả của khủng bố và hiệu lực của hy vọng

Toàn quyển (do ông Lý Văn Quý &  Nguyễn Hiền dịch, tại trang của ông Phan Ba): Vinh Quang của Phi Lý

Nhân dịp 30 tháng 4 năm nay ông sẽ đi một vòng Châu Âu để ra mắt sách. Nhưng trước tiên ông Siemon-Netto sẽ ra mắt hồi ký bằng Đức ngữ của mình tại Hội Chợ Sách được tổ chức ngay tại nơi ông đã sinh trưởng—thành phố Leipzig (Đông Đức cũ). Quý vị có thể mua sách tại Amazon hay trang nhà của tác giả, http://www.siemon-netto.org hoặc viết thư liên lạc với tác giả tại siemon-netto@siemon-netto.org hay quyvanly@aol.com

Đọc tiếp »

Tình yêu , Sự thật, và Việt Nam

In Chính trị (Politics), Lịch Sử, Việt Nam, Văn Chương on 2014/03/08 at 23:36

Điểm sách của Michael Potemra

National Review Online, 18/7/2013

Bản tiếng Anh: “Love, Truth, and Vietnam” by Michael Potema

Ai mà muốn những vết thương của Việt Nam bị toang mở lần nữa? Nhưng sự thống khổ của đất nước đó vẫn là những bài học cho tất cả chúng ta. Uwe Siemon-Netto là một phóng viên chiến tranh thời đó, và ông vừa xuất bản một cuốn hồi ký về nó, Đức: Tình yêu của một phóng viên dành cho một dân tộc nhiều đau thương. Như những hồi ký thực sự xuất sắc, chính những chi tiết nhỏ nhất trong sách đã làm bức tranh lớn trở nên linh động. Siemon-Netto đã chứng minh rằng Bắc Việt là khách hàng quân sự chủ yếu bên ngoài châu Âu của Đông Đức, quốc gia này đã cung cấp mìn gây chết người gọi là PPM-2. Nhiều lần chạy xe dọc quốc lộ 19 ở Việt Nam, ông thấy rằng hầu hết những người bị giết bởi mìn PPM-2 là phụ nữ và trẻ em, bởi vì người dân thường di chuyển bằng xe cộ sơ sài không có khả năng tự vệ so với xe quân sự chuyên chở lính tráng lẽ ra là mục tiêu chính của mìn.

Siemon-Netto không chỉ đơn thuần là một người quan sát từ xa về các tổn thất nhân mạng của thường dân trong cuộc chiến đó. Ông kể lại câu chuyện trong một lần đến bệnh xá của người Đức chữa trị cho thường dân ở Việt Nam, trong khi chiến trận đang diễn ra ở ngoài:

Một bác sĩ trẻ người Đức đang làm việc ráo riết để cứu mạng sống. Trên một bàn mổ dã chiến tôi thấy có một người phụ nữ nằm mê man với lòng ruột phòi ra ngoài một vết thương lớn ở bên trái bụng của cô.

“Bạn có phải là bác sĩ?” Ông BS hỏi.

“Không phải, tôi là phóng viên.”

“Không sao, tôi cần sự giúp đỡ ngay bây giờ. Không còn ai ở lại đây để giúp tôi một tay. Bọn Việt Cộng bắt cóc tất cả. Bạn đi rửa tay ở đằng đó rồi đeo găng tay phẫu thuật vào và hãy tự biến mình thành người hữu dụng.”

Để đặt các bộ phận lòng ruột của người phụ nữ trở lại vị trí cũ, [bác sĩ] đã phải cắt toang bụng cô. Sau đó, ông cần thêm một đôi tay nhét chúng vào bụng qua vết thương hở bên trái của cô. Việc đó thành phận sự của tôi . . . 

Một chủ đề khác mà Siemon-Netto biểu lộ thật mạnh mẽ và rõ ràng là việc chuyện con người ta khoác trên người mình quá dễ dàng một mai rùa kiên cố để phủi lưng (tay) với sự thật. Nhiều năm sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, Siemon-Netto đã về lại Đức:

Tôi tham dự cuộc họp buổi sáng của một tờ báo trí thức Đức nơi tôi làm việc dưới tư cách là một tư vấn biên tập. Công việc của tôi là giúp các biên tập viên và nhà xuất bản này hiện đại hóa tờ báo cổ hũ của họ trong hy vọng rằng nó sẽ đạt tầm cỡ hàng đầu của nước Đức thống nhất . . . .

Các cuộc thảo luận chuyển sang chủ đề cho các câu chuyện tiêu biểu từ Đông Đức cũ.

“Xin xem đây như một đề nghị”, tôi nói. “Sao ta không thử làm một báo cáo chuyên sâu về các nhà sản xuất Đông Đức làm mìn PPM-2, những tàn tích liên quan đến các nạn nhân mà tôi chứng kiến trên dọc cả Quốc Lộ 19 tại Việt Nam? Sao không thử tìm kiếm tài liệu lưu trữ của Đông Đức về bộ máy tuyên truyền cáo buộc Tây Đức đồng lõa trong chiến tranh Việt Nam, và có lẽ đã dẫn đến cái chết của một số bác sĩ và y tá của chúng ta tại Việt Nam?”

Ối trời, tôi đã đạp vào ổ kiến lửa bằng lời gợi ý này! …Dù đây không phải là một tờ báo cánh tả nhưng một số biên tập viên trẻ tự mãn đã trở mặt giận dữ làm tôi tự hỏi có quả thực là thể chế Cộng sản Đông Đức đã thực sự biến mất. Cái ý thức hệ của phong trào sinh viên năm 1968 tôn vinh Hồ Chí Minh đã bắt rễ quá nhiều trong thế hệ của sinh viên tốt nghiệp trường đại học Đức nên bất cứ đề cập nào đến những hành vi vô nhân đạo của Việt Cộng sẽ bị coi là một dị giáo.

Nó cũng không làm tôi ngạc nhiên khi các biên tập viên lớn tuổi, những người lẽ ra phải hiểu biết hơn, vẫn nghĩ là thiếu thận trọng nếu hỗ trợ cho tôi. Nhà thần học Lutheran Dietrich Bonhoeffer một lần từng than vãn là sao mà “lòng can đảm từ công dân quá khan hiếm” ở nước ông ta khi bị Đức quốc xã thống trị…Cái thiếu hụt này nhất định vẫn hiện còn kéo dài ở vài nơi chốn.

Tất nhiên đây không chỉ là một điều thuần tính cách của người Đức: Đây là một xu hướng phổ quát của con người luôn ghét vị thần mang hung tin, và khi sự giận dữ chống lại vị thần sứ giả đưa tin này dâng cao thì ngay cả những người lẽ ra phải hiểu biết hơn cũng làm lơ không bảo vệ sứ giả. Nó làm cho người ta nghĩ đi nghĩ lại trước khi lên tiếng, và ngay cả những ai thực sự dũng cảm cũng không có đủ can đảm để nói lên tất cả sự thật trong mọi thời điểm. Nhưng cuốn sách Siemon-Netto là một minh chứng cho việc phải luôn tiếp tục cố gắng là điều cần thiết.

Người dân Việt Nam đã bị phương Tây bỏ rơi trong những năm thập niên 1970, họ vẫn còn bị áp bức cho đến mãi bây giờ, nhưng chuyện của họ vẫn chưa đến hồi kết cuộc. Siemon-Netto kết luận: “Tôi biết rằng [người Việt Nam] sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa độc tài. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó rồi sẽ xẩy ra.”

Về vấn đề cuối vừa đề cập: Hy vọng là một điều có nhiều mãnh lực. Lúc tôi còn là một cậu bé bắt đầu quan tâm đến chính trị, hồi thời những năm 1970, vì tôi chủ yếu nghĩ rằng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản trong chiến tranh lạnh là một điểm quan trọng mang tính cách sinh tử. Nếu hàng triệu người Mỹ coi việc này thật nghiêm túc và thực sự gắng sức, tôi nghĩ, thế hệ của chúng tôi có thể đặt được nền móng cho vài thế hệ tương lai tạo được chiến thắng cuối cùng và sự thất bại tối hậu của đế chế Xô Viết.

Thế mà khi tôi chưa hết lứa tuổi 20 thì điều đó đã xảy ra.

Trước khi cuốn sách này xuất bản, tôi biết các tác phẩm của Siemon-Netto chỉ qua những văn bản về tôn giáo của ông viết cho UPI, và thông qua sự tham gia của ông ở các cuộc tranh luận trong nội bộ của Lutheran. (Ông là một nhà thần học Lutheran khả kính.) Dù cuốn sách này là một thành tựu quan trọng trong một lĩnh vực hoàn toàn khác, nó đã thấm nhuần các nguyên tắc nhân đạo và tôn giáo trong toàn thể các tác phẩm của ông. Cuốn sách này, như ông cho biết trong phụ đề của mình, là một công trình có gốc rễ từ tình yêu.

Michael Potemra

Nguyễn Hưng Quốc – Bệnh vô cảm và bệnh sợ hãi

In Chính trị (Politics), Liên Kết, Tạp văn, Văn Hóa on 2013/08/28 at 13:56

Sinh viên chống Trung Quốc Nguyễn Phương Uyên (Nguồn: VOA)

Trong bài phỏng vấn do Trà Mi thực hiện, Nguyễn Phương Uyên, cô gái 21 tuổi được nhiều người xem như một “biểu tượng” của lòng can đảm và của tuổi trẻ, nêu lên một ý nguyện, đồng thời cũng là một tham vọng của em: “Tôi không muốn mắc phải căn bệnh rất khó trị ở các thanh niên cùng tuổi tôi. Tôi muốn làm một bài thuốc để thanh niên Việt Nam nhìn thấy mà làm hết mình, ‘cháy’ hết mình, không còn bị vô cảm và sợ hãi vốn đã bị tiêm nhiễm ngay từ bé.”

Tôi không biết hiệu quả của “bài thuốc” ấy thế nào. Nhưng tôi nghĩ Phương Uyên đã bắt đúng căn bệnh kép không phải chỉ của giới trẻ mà còn của người Việt Nam nói chung lâu nay: bệnh vô cảm và bệnh sợ hãi.

Bệnh sợ hãi, thật ra, là một bệnh lâu đời. Chế độ phong kiến, ở đâu cũng vậy, bao giờ cũng xây dựng quyền lực trên hai nền tảng chính: sự sùng bái và sự sợ hãi. Sự sùng bái được xây dựng trên hai nền tảng chính: tư tưởng thần quyền (nòng cốt là tư tưởng thiên mệnh) và các nghi lễ đầy tính đẳng cấp trong xã hội. Sự sợ hãi được tạo thành và được duy trì chủ yếu bằng một biện pháp chính: khủng bố. Trong các tội trạng, tội nặng nhất là tội phản nghịch. Hình phạt dành cho tội này thường là tử hình, có khi không phải tử hình một cá nhân mà còn tử hình nguyên cả một dòng họ (tru di tam tộc). Tử hình không phải chỉ nhắm đến việc giết chết tội nhân. Mà còn nhắm đến việc giết chết mọi ý đồ phản nghịch của những người còn sống bằng cách khiến họ phải sợ hãi. Do đó, người ta bày ra đủ thứ kiểu giết người, từ kiểu chặt đầu, treo cổ đến kiểu cho voi giày, ngựa xé, ném vào vạc dầu sôi, tùng xẻo, v.v.. Bởi vậy, chuyện ngày xưa dân chúng thường xuyên sống trong sợ hãi là điều dễ hiểu.

Sau này, chế độ cộng sản tiếp tục duy trì sự sợ hãi ấy bằng các trại cải tạo và nhà tù, hơn nữa, bằng chế độ lý lịch: Con cháu những người bị xem là phản động trở thành một thứ con ghẻ, thường xuyên bị nghi kị và kỳ thị, có thời gian, lại là thời gian khá dài, còn không được nhận vào đại học. Bây giờ, do sự phát triển của kinh tế thị trường, chế độ lý lịch ấy đã giảm đi nhiều. Tuy nhiên, hệ thống nhà tù thì vẫn dày đặc. Mà không cần nhà tù, chỉ cần sự hiện diện của công an, mọi người đã khiếp sợ.

Tất cả những sự khủng bố và đe dọa ấy khiến mọi người nếu không run sợ thì ít nhất cũng thu mình lại, né tránh mọi đụng chạm đến công an hoặc rộng hơn, đến chính trị, từ đó, làm nảy sinh ra một thứ bệnh khác: bệnh vô cảm.

Nếu sợ hãi là một căn bệnh lâu đời, vô cảm lại là một căn bệnh rất mới. Trước, hầu như không ai nói người Việt vô cảm bao giờ. Thậm chí, ngược lại, hầu như ai cũng cho người Việt sống bằng tình cảm nhiều hơn lý trí. Với tư cách cá nhân, người ta quan tâm đến nhau; láng giềng quan tâm đến nhau; cả làng quan tâm đến nhau. Chuyện một người biến thành chuyện của cả tập thể. Sự quan tâm lớn đến độ lấn át cả sự riêng tư của từng cá nhân một.

Vậy mà, những năm gần đây, hầu như bất cứ người nào để ý đến xã hội Việt Nam một chút, cũng đều nhận thấy ngay một hiện tượng: người ta đối xử với nhau thật vô cảm.

Ngoài đường, nhìn người khác bị cướp giật, hầu như mọi người đều dửng dưng; thấy có ai đó bị tai nạn nằm giãy đành đạch, phần lớn vẫn đứng trố mắt nhìn. Trồng trọt hay buôn bán thực phẩm, biết việc sử dụng nhiều hóa chất có thể gây nhiễm độc hay bệnh hoạn cho xã hội, người ta vẫn mặc kệ. Làm các dịch vụ du lịch, biết việc chụp giật hay lừa đảo có thể gây ấn tượng xấu cho cả đất nước, khiến du khách ngoại quốc khinh bỉ và không bao giờ trở lại Việt Nam nữa, người ta vẫn bất chấp.

Chưa hết.

Hiện tượng con cái đánh đập hoặc đuổi bố mẹ già ra khỏi nhà càng lúc càng phổ biến. Chỉ giận hờn hay cãi cọ nhau một chút là học sinh, có khi là nữ sinh, đã đánh nhau một cách tàn nhẫn. Để cướp một chiếc nhẫn, thay vì trấn lột, người ta nghĩ ra một biện pháp cực nhanh: chặt đứt nguyên cả cánh tay. Ăn trộm một con chó cũng bị cả làng xúm vào đánh chết.

Dù sao, ở trên cũng là những chuyện… nhỏ.

Lớn hơn là những chuyện liên quan đến số phận của cả đất nước. Việt Nam bị ô nhiễm trầm trọng ư? Người ta nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!” Nạn tham nhũng hoành hành, các công ty quốc doanh thi nhau phá sản để lại những núi nợ nần không những cho thế hệ hiện tại mà cả các thế hệ sau này nữa ư? Người ta cũng nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!”

Quan trọng nhất là chuyện chủ quyền. Hầu như ai cũng biết Trung Quốc đang toan tính cướp biển và cướp đảo Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng đến mạng sống của nhiều ngư dân Việt Nam, chi phối tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam. Ai cũng biết vậy. Nhưng phần lớn đều nhún vai: “Làm gì được?”. Rồi thôi.

Người Việt vẫn thường tự hào về truyền thống yêu nước, bất khuất và anh dũng của mình. Nhưng thời gian gần đây, nhìn đâu cũng thấy những cái nhún vai bất cần, kiểu sống chết mặc bay như thế.

Tại sao?

Lý do, thật ra, khá đơn giản. Một phần vì sợ, như đã nói ở trên. Phần khác, vì đó là chính sách của nhà cầm quyền. Dưới mọi hình thức tuyên truyền, nhà cầm quyền chỉ muốn mọi người vô cảm. Bày tỏ sự quan tâm của mình đối với chủ quyền của đất nước dưới hình thức biểu tình thì bị đạp vào mặt hay bắt thảy vào các nhà tù; dưới hình thức bài viết trên các blog thì bị vu cho tội… trốn thuế.

Trước, mọi nhà độc tài đều duy trì chế độ của mình trên sự sợ hãi của người dân; sau này, ngoài sự sợ hãi, người ta sử dụng một biện pháp nữa: làm cho mọi người trở thành vô cảm.

Tôi không biết hiệu quả của bài thuốc trị sự vô cảm và sự sợ hãi của Phương Uyên như thế nào. Nhưng ít nhất, nhìn ánh mắt, dáng dứng và những câu phát biểu của em trước tòa, cả tòa sơ thẩm lẫn tòa phúc thẩm, và đặc biệt, nhìn cả trăm người từ khắp nơi đến tham dự phiên tòa phúc thẩm của em, tôi nghĩ, ít nhất cũng có nhiều người đã vượt qua được hai căn bệnh hiểm nghèo ấy.

NguồnVOA