vietsoul21

Posts Tagged ‘chuyên gia’

Thư gởi RFA về Cuộc phỏng vấn của Việt Hà và vấn đề chuyển ngữ của Vũ Hoàng với tác giả cựu phóng viên chiến trường Uwe Siemon-Netto qua bài “Ký ức về cuộc chiến Việt Nam của một phóng viên Đức”

In Cộng Đồng on 2015/02/15 at 18:11

BBT (3/5/2015): Ban điều hành đài Á Châu Tự Do (RFA) đã sửa chữa các vấn đề, nhất là tựa đề sách và cho đăng tải phần hai của cuộc phỏng vấn, mặc dù không trả lời chúng tôi. Đây là các vấn đề mà chúng tôi nêu ra trong lá thư dưới đây.

BBT (2/16/2015): Hôm qua, sau khi chúng tôi cho đăng lá thư viết cho ban điều hành của đài RFA than phiền về việc phiên dịch sai sót (mang tầm ảnh hưởng nghiêm trọng trong việc định hướng dư luận tiêu cực) qua cuộc phỏng vấn của Việt Hà với một cựu phóng viên chiến trường người Đức từng có mặt tại Việt Nam trong thập niên 1960 và 1970 trước biến cố tháng 4 1975, có thể sẽ có người sau khi đọc lá thư này sẽ nghĩ là chúng tôi quá cẩn thận.

Chúng tôi thiển nghĩ lá thư này không phải là chuyện phản ứng một cách “cực đoan”, chi li hay “vạch lá tìm sâu”.

Lý do? Chúng tôi đã viết như sau trong đoạn kết của lá thư:

“… dù vô tình hay cố ý, việc chuyển ngữ mang tính chủ đích này đã làm lợi cho nghị quyết 36 của ĐCSVN.

Nói một cách khác, ngôn ngữ thì không tránh khỏi tính chính trị dù ta cố tìm cách bào chữa và cho nó chỉ là “từ vựng” mang tính trung lập. Dịch thuật, do đó, bị giới hạn vì bản sắc và phẩm chất của bản dịch cuối cùng chịu ảnh hưởng của người mang trách nhiệm chuyển dịch–không những chỉ ở mức độ khả năng và trình độ mà còn do thành kiến định chế từ kinh nghiệm sống và bối cảnh văn hóa và không gian chính trị–nơi mà từ đó họ đã sinh trưởng.”

Điều độc hiểm xảo quyệt trong chủ đích lựa chọn hay cắt xén ngôn từ này đã từng được chứng minh.

Ví dụ, mới đây ông Thomas Bass, một phóng viên nghiên cứu đang giảng dạy tiếng Anh và báo chí tại Đại học tiểu bang New York ở Albany và người đã làm một cuộc thí nghiệm để nghiên cứu kiểm duyệt ở Việt Nam, đã từng nhận định như sau trong bài viết mang tựa đề, “Vietnam’s concerted effort to keep control of its past” (Nỗ lực của Việt Nam để giữ quyền kiểm soát về lịch sử quá khứ)

“In fact, the most insidious changes occur at the level of language.” (Trong thực tế, những thay đổi độc hiểm nhất xảy ra ở cấp độ ngôn ngữ.)

(Xin xem toàn bộ bài viết của ông đã được chúng tôi phiên dịch tại https://vietsoul21.net/2015/02/02/no-luc-cua-viet-nam-de-giu-quyen-kiem-soat-ve-lich-su-qua-khu/)

Chuyện nhỏ nhưng không phải nhỏ là vậy.

Nếu chúng ta coi thường tầm ảnh hưởng mang tính chính trị của ngôn ngữ qua hành động các con chữ được gạn lọc và bị cắt xén theo một chủ thuyết mục đích tuyên truyền nào đó, chúng ta vô hình chung đã rơi vào bẫy độc hiểm xảo quyệt nhất trong tiến trình tạo ra và củng cố diễn luận (discourse) của kẻ nhóm/tập đoàn thống trị.

Diễn luận thì đã xảy ra rất nhiều và cả người làm báo/truyền thông cũng không miễn nhiễm. Chúng tôi do đó cũng đã phân tích tầm ảnh hưởng của diễn luận ví dụ như qua loạt bài về “bất bạo động” trên blog của mình, https://vietsoul21.net/2014/06/07/bat-bao-dong-trong-dien-luan-phan-i/

Chuyện gì xảy ra khi đã rơi vào bẫy tròng diễn luận này? Lú lẫn lãng quên!!!

Chuyện gì xảy ra khi trò chơi qua ngón đòn “lú lẫn lãng quên” thành công? Quý bạn đã có thể tự trả lời rồi đấy.

**************************************************
Re: Cuộc phỏng vấn của Việt Hà và vấn đề chuyển ngữ của Vũ Hoàng với tác giả cựu phóng viên chiến trường Uwe Siemon-Netto qua bài “Ký ức về cuộc chiến Việt Nam của một phóng viên Đức
Kính gởi ban điều hành Đài Á Châu Tự Do/chương trình Việt Ngữ [Radio Free Asia(RFA)/Vietnamese program]:

cc: vietweb@rfa.org; siemon-netto@siemon-netto.org; uwesiemon@mac.com; uwesiemon@me.com; quyvanly@aol.com

Chúng tôi rất thất vọng về việc dịch thuật của nhân viên đài phát thanh RFA cho tựa sách xuất bản lần thứ ba của tác giả/cựu phóng viên chiến trường người Đức, ông Uwe Siemon-Netto. Nguyên tựa đề của quyển hồi ký tái xuất bản lần thứ hai và thứ ba này là, “Triumph of the Absurd: A reporter’s love for the abandoned people of Vietnam”.

Cuộc phỏng vấn của Việt Hà/RFA này đã được chia ra thành hai kỳ và cho phát thanh phần một trong Chương trình 9:00 tối 12-02-2015 ở phút thứ 30′:13“, và phần hai trong Chương trình 6:30 sáng 13-02-2015 ở phút 11′:22″.

Chúng tôi nhận định việc sai sót này không thật sự liên quan đến trình độ phiên dịch của Vũ Hoàng và Việt Hà—hai nhân viên gốc gác sinh trưởng và lớn lên tại miền Bắc Việt Nam và đã được quý đài tuyển mộ trong một thời gian tương đối khá dài.

Quyết định cố ý dịch tựa sách thành “Đức: Thâm tình của một phóng viên với thương binh Việt Nam” tuy nhìn trên bề mặt chỉ như một sai sót thật ra là nghiêm trọng và có liên quan đến các vấn đề sau đây:

(1)          Sai sót lớn trong chuyển ngữ:

(1a).       Chúng tôi muốn biết vì lý do gì tựa đề của quyển hồi ký xuất bản lần thứ ba là “Triumph of the Absurd: A reporter’s love for the abandoned people of Vietnam” đã bị chuyển dịch thành “Đức: Thâm tình của một phóng viên với thương binh Việt Nam”?

Nếu dựa vào tựa sách lần xuất bản đầu tiên, “Đức: A Reporter’s Love For a Wounded People” thì ít ra cũng phải được tạm dịch là “Đức: Thâm tình của một phóng viên dành cho một dân tộc nhiều đau thương”. Nếu dựa vào tựa sách lần hai và ba thì phải dịch là “Sự Vinh Quang Phi Lý: Thâm tình của một phóng viên dành cho một dân tộc bị bỏ rơi”.

Khi cố ý dịch từ “dân tộc” thành “thương binh Việt Nam” và xóa từ “đau thương” hay “bỏ rơi” cho tựa đề của hồi ký thì việc chuyển ngữ này mà Vũ Hoàng và Việt Hà đã làm với chủ đích gì? Đây không phải là việc sai sót nhỏ. Tại sao giảm thiểu tựa đề của quyển hồi ký xuống chỉ còn nhắm đến thành phần “thương binh” thay vì một “dân tộc”? “Thương binh Việt Nam” nào trong bối cảnh nào được đề cập?

Nếu e có sự ngộ nhận trong từ ngữ “dân tộc” trong quyển hồi ký này thì điều cần thiết là phải có chú thích/giải thích về chữ “dân tộc” mà tác giả đề cập đến và nhấn mạnh trong hồi ký này là dân miền Nam Việt Nam trong thời kỳ trước tháng 4 năm 1975. Thật ra, theo thiển nghĩ của chúng tôi, ông Siemon-Netto đã nghĩ rộng hơn nữa, “dân tộc” là cả một dân tộc Việt Nam đã bị bỏ rơi và chịu đau khổ cho đến ngày hôm nay vì một cuộc chiến oái ăm do những kẻ phi lý được Liên Xô và Trung Cộng hỗ trợ cả tiền và vũ khí.

Như đã đề cập ở trên, hồi ký của ông Siemon-Netto đã xuất bản ba lần. Chúng tôi chú ý đến các hoạt động liên quan đến quyển hồi ký này từ khi khởi đầu, và đã có các bài dịch thuật đăng tải liên quan đến quyển hồi ký này trên trang blog của VietSoul:21. Đây là một sản phẩm văn hóa/giáo dục hiếm hoi quan trọng ra đời trong khoảng thời gian gần đây đồng loạt với một vài tác phẩm (ví dụ như Lan Cao với “Hoa Sen và Bão Tố” hay bộ phim của Rory Kennedy “Những Ngày Cuối Cùng tại Việt Nam”) mang tính khôi phục các góc cạnh lịch sử đã bị bóp méo/bôi xóa, cũng như tôn trọng sự thật từ lăng kính và kinh nghiệm sống của kẻ/nhóm không có tiếng nói và đã/đang bị bịt miệng vì nhiều lý do mang tính chính trị. Tại sao hiếm có? Vì đây là một sản phẩm hoàn toàn đưa ra góc nhìn phản kháng khác hẵn 700 sản phẩm văn hóa thiên tả–từ phim ảnh Hollywood đến sách nghiên cứu hàn lâm–khác tại Hoa Kỳ đã ra đời chất chứa nhiều định kiến và sai lệch về cuộc chiến Việt Nam.

Do đó, việc cố tình dịch thuật méo mó tựa sách sẽ ảnh hưởng tầm nhìn của những cá nhân và thành phần nào? Chắc chắn là không phải là những ai theo dõi xuyên sát về các sản phẩm mang giá trị quan trọng về lịch sử và chính trị, chẳng hạn những bloggers như chúng tôi.

(1b) Sau khi có cuộc phỏng vấn của Việt Hà với chính tác giả, phần I của cuộc phỏng vấn này đã được dịch và đăng tại link của RFA sau đây, http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/40years-april30/memory-vn-war-b-german-reporter-02132015130158.html?searchterm:utf8:ustring=Uwe+Siemon-Netto.

Chúng tôi muốn biết tại sao phần hai (từ phút 11’22” đến 17’44”) không được chuyển ngữ và đăng tải trên blog của đài? Đây là đoạn phỏng vấn không kém phần quan trọng khi Việt Hà đặt các câu hỏi thường được đặt để bởi các ký giả/giáo sư/chính trị gia thuộc thành phần thiên tả.

Thật ra cách phỏng vấn thuộc phần hai này không phải là chuyện không nên làm, nhưng cũng giúp chúng tôi có thể nhận định rõ ràng về các chủ ý phi dân chủ của các tác giả/người làm việc liên quan đến truyền thông báo chí cũng như các giới hạn của ngôn ngữ và dịch thuật. Điều này ông Siemon-Netto cũng đã đề cập tới trong quyển hồi  ký để phê phán các chủ đích và hành động không trung thực của giới truyền thông cánh tả tại Hoa Kỳ trong thập niên 1970.

Tóm lại, đây là việc làm với các quyết định không thiếu tính chính trị. Chúng tôi sẽ đề cập rõ điều này thêm trong phần 3.

(2)          Trách nhiệm dịch thuật và phỏng vấn:

Qua nhận xét mà chúng tôi đã đưa ra trong phần 1(b), câu hỏi cần được đặt ra là làm thế nào để tạo sự cân bằng chính xác trong vấn đề dịch thuật/phỏng vấn? Ai là người đảm nhiệm giám sát cho việc chỉnh sửa/sắp xếp nhân viên cho các công việc phỏng vấn/phỏng vấn/chuyển dịch này? Tại sao việc dịch thuật này lại đi ngược với tôn chỉ hoạt động—nhất là “không bè phái”—mà chương trình phát thanh lặp đi lặp lại hằng ngày trên sóng? Việc giám sát dịch thuật/phỏng vấn thuộc các vị điều hành nào?

Chúng tôi thiết nghĩ các quý vị đã từng có kinh nghiệm sống tại miền Nam Việt Nam và thuộc cấp cao hơn hai nhân viên này chẳng lẽ không có trách nhiệm giám sát kiểm chứng nhằm gắn liền với tôn chỉ “độc lập” và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp hay sao? Hơn thế nữa, tại sao không có sự sắp xếp giúp cho một ký giả miền bắc có thể làm việc với một nhân viên miền nam thuộc thế hệ thứ nhất hay 1.5 đã từng sống hoặc hiểu kinh nghiệm của người miền Nam trước năm 1975 để cùng trao đổi đối thoại và tra dò kiểm chứng trước khi cho ra đời các chuyển dịch và phỏng vấn mang tính lịch sử và chính trị như thế này?

(3)          Tầm ảnh hưởng của viêc chuyển ngữ sai sót lớn này:

Như đã đề cập ở trên, đám đông thính giả mà quý đài nhắm vào là đa số dân chúng trong nước tức là nhữnng ai không biết hoặc không rành Anh ngữ hay/và không hề biết về các sản phẩm văn hóa/lịch sử đề cập đến cũng như kinh nghiệm sống của kẻ bị trị và đàn áp bởi CSVN trong vòng 70 năm nay. Điều đó đồng nghĩa với một tầm ảnh hưởng tiêu cực của truyền thông trong việc định hướng dư luận và mang tính phi dân chủ. Ngoài ra, dù vô tình hay cố ý, việc chuyển ngữ mang tính chủ đích này đã làm lợi cho nghị quyết 36 của ĐCSVN.

Nói một cách khác, ngôn ngữ thì không tránh khỏi tính chính trị dù ta cố tìm cách bào chữa và cho nó chỉ là “từ vựng” mang tính trung lập. Dịch thuật, do đó, bị giới hạn vì bản sắc và phẩm chất của bản dịch cuối cùng chịu ảnh hưởng của người mang trách nhiệm chuyển dịch–không những chỉ ở mức độ khả năng và trình độ mà còn do thành kiến định chế từ kinh nghiệm sống và bối cảnh văn hóa và không gian không gian chính trị–nơi mà từ đó họ đã sinh trưởng. Hơn nữa, người điều hành trong giới truyền thông phải chịu một trách nhiệm lớn một khi việc định hướng dư luận đã trở thành tiêu cực và ở mức độ nghiêm trọng.

Bản Anh ngữ của lá thư này sẽ được chuyển đến đài RFA và các tác giả/dịch giả liên quan đến hồi ký này trong vài ngày tới. Chúng tôi hy vọng sẽ sớm có phúc đáp của ban điều hành chương trình RFA/Việt Ngữ về vấn đề nghiêm trọng này.

Kính thư,

VietSoul:21

(Phản) Phản Biện và Sự Thật

In Cộng Đồng, Chính trị (Politics), Tạp văn on 2011/02/18 at 01:52

BBT: Chúng tôi cài lại bài này vào trang nhất góp phần vào các ý kiến về “trí thức”, phản biện, và “đối lập trung thành” liên quan đến các bài báo, phỏng vấn nhà văn Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, GS Chu Hảo, Ngô Bảo Châu, Nguyễn Minh Thuyết …

VietSoul:21

“Kiến thức và sự thật chỉ là một chiều, tùy theo bối cảnh, chủ quan, nhuốm đuộm quyền lực, và liên quan đến người trong cuộc. Sự từ chối các giá trị, những thành kiến, và chính trị là không thực tế và chả ai muốn.”

(Hesse-Biber, 2012, p. 9)

Truth_Václav Havel_E&V

Hổm rày đọc báo mạng thấy nhiều “phản biện” và “phản-phản biện” đến một vài bài viết. Sôi nổi hơn hết là những (phản) phản biện với hai bài viết tựa đề “Vì sao chưa thể có một biến cố như Tunisia ở Việt nam” và “Không th b cong s tht đ t ru ng mình và bn đc[i]. Chúng tôi đã góp ý chung cho hai bài viết này tại trang đăng bài. Thế nhưng vì muốn được “nhân dân”[ii] ủng hộ nên xin góp thêm một vài ý nữa.

Những điều mà chúng tôi đóng góp thêm sau đây thuộc về bn cht và tác dng ca s lm dng phn bin cũng như mối liên hệ đến hoang tưởng sở hữu sự thật. Ngoài ra bài này biểu lộ sự hoài nghi của chúng tôi về tính toàn bích của “phản biện” (tìm cái tối ưu và thuyết phục, minh bạch, và duy lý) được đưa ra trong bài viết “Phản biện[iii] gần đây. Chúng tôi muốn giải mã những lý luận, không nhắm vào “người đưa tin” (shooting the messenger). Mong rằng cũng nhận được sự phản biện về bài viết này nằm trong tinh thần lắng nghe và xây dựng.

Theo chúng tôi thì phản biện mà không tham gia chính trị là lối diễn luận “hơi bị quen” của nhiều thành phần thuộc vào các khối bất vụ lợi, xã hội dân sự, và trí thức trong và ngoài nước. Đây là một hiện tượng chung của hằng hà sa số trong đó đầy đủ các biện luận bào chữa và gián tiếp giúp thể chế đang vận hành tiếp tục củng cố và đứng vững.

Thành phần tự cho mình đứng trong vị trí này thường có đánh giá thiên lệch trong tự mãn và dễ dẫn đến sai lầm, nhất là những lúc khư khư quả quyết rằng “chính trị” chuyên mang nghĩa tiêu cực và thủ đoạn. Đó là sự nhập nhằng đánh đồng giữa tư cách chính trị, vị thế chính trị, quan điểm chính trị, và hành xử chính trị đối với chấp chính (các đảng phái chính trị tranh giành quyền chấp chính).

Những ai tự xưng mình chỉ “phản biện mà không tham gia chính trị” thường là lẩn quẩn lòng vòng với ngụy biện mặc dù có lẽ biết bất cứ bước nào mình chọn đi, hay chỗ nào mình chọn tới, cũng hàm chứa ý nghĩa chính trị. Dù kiểu chính trị tối thiểu chỉ dừng lại nơi chốn có lợi và vô hại cho cá nhân mình mà thôi.

Quan điểm “không tham gia chính trị” thật ra là một thói quen “khoanh vùng” (mặc áo giáp, đặt hàng rào chống B40) của những người dân sống ở các chế độ độc tài áp bức, hay ứng xử cố hữu của các sắc dân thiểu số trong những xã hội mang danh “dân chủ tự do kiểu Tây” (Western Liberal Democracy). Đó âu cũng là một vị trí bảo thủ nhằm mua được sự an toàn tránh bị “điểm mặt”. Thế nhưng việc họ có thể trốn/tránh được bạo quyền đàn áp hay không thì là một chuyện khác. Hay là rốt cuộc họ cũng bị đì ì xèo bởi các “đầy tớ” quan thầy.

Hơn 30 năm sống hải ngoại chúng tôi chưa thấy có công dân xứ sở tự do (Hoa-kỳ đây chẳng hạn) nào phải mào đầu tự “khoanh vùng” khi ứng xử hay đối thoại về chính sách và chính quyền. Đôi lúc họ tránh né tranh luận chính trị vì bất đồng chính kiến chứ không cần phải bảo kê cho mình bằng cách tuyên xưng vị thế “phi chính trị”. Riêng người Việt hải ngoại thì cũng không ít kẻ nhóm vẫn còn la chai bải “không tham gia chính trị” vì ám ảnh nặng nề của tâm thức nô lệ hậu-thực-dân.

Chúng tôi tin rằng đa số những người Ai-cập xuống đường trong hơn ba tuần không phải là những người có ý nghĩ “tham gia chính trị” hoặc đi làm “cách mạng”. Họ chỉ ứng xử một cách tự nhiên như “con giun xéo mãi cũng quằn” với tư cách công dân để đòi hỏi quyền làm người của họ mà thôi. Sau khi vượt qua nỗi sợ họ từ chối “khoanh vùng” cho mình là thuộc giai cấp công nhân, nông dân, hay trí thức gì gì ráo. Họ xuống đường với tư cách là công dân và những hành động của họ tự mang một quan điểm chính trị.

Không phải phong trào đấu tranh trên thế giới nào cũng có sự hiện diện của thành phần trí thức chuyên năng nổ trong công tác phản biện. Đa phần họ chỉ là những người thích tập trung tư duy để quan sát, so sánh, và phân tích (dù có ngụy biện hay không) sau khi các cuộc đấu tranh xuống đường đang xảy ra (dù thắng hay bại) hay đã chuyển sang chợ chiều để đi vào hoàng hôn tắt ngấm.  Nếu có tham gia vào công việc đấu tranh thì họ chỉ thực hiện vào giai đoạn cuối khi mọi chuyện sắp đến hồi kết cuộc—máu đã đổ và mồ hôi nước mắt đã cạn. Vì không có quyền lực nào tự bằng lòng cho sang nhượng mà chỉ phải tranh lấy mà thôi.

Cổ xúy, tham gia, và thực hiện phong trào đấu tranh dân chủ trong cảnh tỉnh bất bạo động là một việc nan giải đòi hỏi đám đông thắng được sự sợ hãi.  Và cuộc nổi dậy phát khởi nào mà không bị dập tắt thì không thể thiếu làn sóng kích thích phát xuất từ một nhân tố hay sự kiện chấn động lòng người. Tuy nhiên, đấu tranh xuống đường không phải là không thể xảy ra, nhất là khi có “nhân hoà” trong tinh thần tự phát đồng điệu, hoà hợp với “thiên thời” và “địa lợi”.

Khi đấu tranh nổi dậy xuất hiện thì nó đến bất ngờ như vũ bão.  Không một nhà bình luận, phân tích chính trị nào đoán trước nỗi. Tiếc thay đa số họ (nhất là các nhà quan sát Tây Phương) lại châm bẩm vào tính chất máy móc của cuộc cách mạng để chất vấn “Tại sao nó lại xảy ra vào lúc này?” và “Chuyện gì sẽ xảy ra kế tiếp?” nên thường lạc điệu, lỗi nhịp với thời điểm và ý nghĩa lịch sử quan trọng của cuộc cách mạng nổi dậy đó.[iv]

Tranh đấu cho công bằng xã hội của hết thảy chứ không chỉ riêng mình là việc nhiêu khê—lợi ít hại nhiều cho bản thân. Ông bà ta chẳng từng có câu “ăn cơm nhà vác ngà voi” đấy sao! Công việc tích cực góp sỏi, lót đường, xông xáo không ngại gian nan trong khi đòi hỏi tự do nhân phẩm và quyền làm người thì lúc khởi đầu khó có sự hiện diện của những ai thụ động và câu nệ xốc vác. Nói trong hùng biện thì dễ nhưng tay lấm chân bùn thì khó.

Tác giả Việt Hoàng cũng đã khẳng định như thế trong một bài viết về sự thờ ơ né tránh tham gia phong trào đấu tranh đòi dân chủ của các đại gia, trọc phú, và doanh nhân Việt Nam. Tác giả đã nói tiếp,

Tôi cho rằng không phải dân trí người Việt Nam kém mà ý thc ca tng lp trí thc Vit Nam kém. Nếu không kém thì trí thc Vit Nam đã làm được việc “khai dân trí, chấn dân khí” cho mọi người Việt Nam. Trước tình hình đất nước như hiện nay thì trí thc phi xem vic dn thân chính tr như là mệnh lệnh của lòng yêu nước và trí thức phải nhận lãnh trách nhim dn dt người dân và lãnh đạo đất nước.”[v]

Hiện tượng thờ ơ né tránh tham gia phong trào đấu tranh đòi dân chủ này liên hệ đến một điều quan trọng hơn nữa: “Tư duy phản biện có thể phân biệt, nhưng không thể tách rời khỏi cảm quan.” Không ai có thể quả quyết là mình nắm chắc hay biết được “sự thật”. Mọi quan điểm của cá nhân hay đoàn thể  đều xây dựng diễn giải từ quá trình học hỏi cũng như tích lũy kinh nghiệm sống riêng nhưng tất đều ảnh hưởng xã hội. Bất cứ quan điểm nào mà cá nhân hay đoàn thể đưa ra cũng không thoát khỏi giới hạn trong tầm nhìn được kết lũy từ quá trình diễn giải tương đối đó.

Václav Havel cũng đã từng trao đổi suy nghĩ của ông về sự thật với một phóng viên Tiệp lưu vong Karel Hvížd̕ala và đã được ghi lại trong quyển sách mang tựa đề “Quấy rầy hòa bình” (“Disturbing the Peace: A Conversation with Karel Huizdala“). Ông nói sự thật “không chỉ là chuyện của bạn nghĩ nó nghĩa là gì, nó còn được nói ra sao trong bối cảnh nào, nói với ai, tại sao, và được nói như thế nào.” (1990, trang 67). Rất nhiều bình luận (loạn) gia (pundits) đều cho mình sở hữu “sự thật” nhưng thật sự mọi người/đám đông thầm lặng chỉ mong muốn họ có và tỏ lộ được chút lòng chân thật. Những chuyện “lộng giả thành chân” vẫn nhan nhãn ấy thôi.

Phản biện hạn chế vì liên hệ đến địa lý tính, nhãn quan xã hội và hệ tư tưởng ăn sâu trong văn hóa.  Sản sinh của phản biện thì tùy theo lăng kính phụ thuộc cường độ chủ quan của lịch sử chính thống—loại lịch sử thường xóa sổ và cướp mất tiếng nói của những ai bị cho ra rìa, không có, hoặc mất vị trí trong xã hội. Đây là loại lịch sử đã gạn lọc và chỉ ghi chép các dữ kiện thuận lợi cho thành phần đương kim sau khi cướp quyền lực từ đấu tranh quần chúng.

Trong bối cảnh như thế thì đa phần các vị học giả trí thức chọn làm người “ngoài cuộc” mà vẫn “ăn theo”. Ăn theo đây không hẳn là trực tiếp hưởng được bổng lộc của cơ chế chính thống mà là lợi gián tiếp vì “bình chân như vại” ở đặc quyền (privileges) thuộc về chuyên gia. Chuyên gia thì bao giờ cũng được sử dụng và ưu đãi bởi người cầm quyền (phe tả, phe hữu) vì ta nằm trong phe nghiêng ngã.

Hơn thế nữa, chuyên gia xử dụng kiến thức và đặc quyền để dẫn đặt cái ảo tưởng huyễn hoặc là mình có “sự thật” định hướng suy nghĩ của đám đông quần chúng, và bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng nói hộ giùm cho (phó) thường dân. Dĩ nhiên, chuyện mặt bên kia của đồng tiền cũng rất quan trọng:  ai được chọn cho phát biểu phản biện. Sự lựa chọn thiên vị đó không nằm ngoài sức mạnh của đồng tiền và quyền lực của một hệ thống nhập nhằng giữa nhà nước, cơ quan truyền thông, các cơ quan cung cấp ngân quỹ (còn gọi là “Sáng viện” hay “sáng hội” tức foundation), và giới chủ nhân ông.[vi]

Ông Thomas L. Friedman/một nhà bình luận cho tờ báo NY Times—người từng bị lên án nhiều lần khi ủng hộ chiến tranh Iraq và thiên vị Israel trong khi có nhiều lời lẽ miệt thị các dân tộc Ả rập cũng như từng bị chỉ trích bởi những người hàn lâm cánh tả và phe chống tự do thương mại toàn cầu hóa tại Hoa Kỳ—thì vừa rồi cũng đã khéo gác phản xạ lý trí chuyên gia của mình sang một bên để tường thuật lại cuộc cách mạng nhân dân Ai-cập như sau:

Khi do lòng vòng [ti quãng trường] ai cũng nghe thy toàn là những hy vọng bị đè nén, những khát vng và thất vọng suốt 50 năm qua của người dân Ai Cập. Tôi biết các nhà chuyên gia “thc tế” đang cho rng tt c không chóng thì chy s b dp b. Có th chúng sẽ bị dẹp tan. Nhưng trong những khoảnh khắc tỏa sáng ngắn ngủi này thì xin hãy quên đi các v chuyên gia và ch cn lng nghe thôi. Bạn chưa từng nghe được như thế này trước đây đâu. Đó là âm thanh của người dân tng đã quá lâu bị cướp đi và rt cuc đã tìm li được, đằng hắng thử âm ging và hân hoan ct lên tiếng nói mình.”[vii]

Đó là chưa nói đến hai lăng kính khác. Theo thuyết nữ quyền (feminism) (gọi chính xác hơn là nam nữ bình quyền) thì phản biện nặng tính chất “đực rựa” do đó không tạo được hợp quần đoàn kết. Cứ tham gia chơi trò đá gà, đá cá (lăn dưa), hay đấm (đá) bốc Muay Thái thì biết. Ngoài ra, phản biện xuất phát từ “kỹ nghệ triết lý” từ thời Socrates rất xa xưa của nền văn minh Tây phương nên luôn luôn trọng lý thiếu tình, và đã gạt bỏ hẳn cảm tính cho vị tha bao dung.

Giới hàn lâm phương Tây từng bị nghẹn họng vì lậm duy lý và loay hoay chưa cách nào thoát nỗi cái cạm bẫy đầy trắc trở của diễn luận “sự chọn lựa hợp lý” (rational choice discourse), nhất là sau khi Descartes đã kiên định sự hiện hữu của ông ta là nhờ “biết dùng cái đầu” (từ ngữ trong bài viết “Vì sao chưa thể có một biến cố như Tunisia ở Việt nam”; còn nguyên văn của Descartes là “I think therefore I am”). Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi phủ nhận cái lý luận/phản biện nhưng cần vạch ra tình/lý của mọi sự việc.

Diễn luận không giúp ích gì được cho cuộc đấu tranh giải phóng giúp bản thân ta và người khác khỏi nạn “nội thực dân[viii] trong các xã hội ngổn ngang những bất công và đau khổ.  Sự chọn lựa (mê sảng) duy lý này làm thui chột tâm hồn và nhân cách khi ta buộc chạm trán với tương quan giữa người và người (I- and-thou).[ix] Một sự chọn lựa duy lý trong vô thức nhưng tạo tràn đầy phản xạ thèm thuồng ghen tị của đám đông làm ta quên tình tha nhân và gạt bỏ lòng bồ tát, do đó dẫn đến việc coi thường chuyện con người cần vượt qua bản ngã và cái tôi.

Thứ ba, phản biện không tạo được đối thoại. Cứu cánh cho phản biện là phải tiếp tục sản xuất kiến thức theo đơn đặt hàng (ví dụ mong số lượng người nghe và đọc tăng cao) và trọng vị cá nhân hóa. Rất nhiều khi phản biện chuyên chở thành kiến chỉ trích, hay mang khinh ghét, và tạo phê phán nhục mạ (do vô thức hay có chủ ý) trong lúc đề cập đến và đánh giá các lập trường của các nhân vật hay lực lượng đối kháng nhau.

Thói (chứng) phản biện mang nặng tính giả thuyết (và nhiều khi thiếu bối cảnh quan) nhưng đội lốt hành xử khéo léo trong chủ quan kiêu hãnh rằng lập luận của mình thì là phải đúng.  Phản biện do đó tiềm ẩn gốc rễ bạo động vì nó dập tắt tương quan đối thoại.  Dĩ nhiên không có tương quan đối thoại thì không thể nào cổ động hô hào cho “hòa hợp hòa giải” hầu chuyển hóa tình cảnh mâu thuẫn bế tắc.

Chúng tôi ghi nhận nhiều viễn quan về đoàn kết và xây dựng trong các bài viết nhưng không may do tính duy lý trong phản biện đã gây phản tác dụng và đưa đến kết cuộc là chỉ sinh ra hàng loạt dây chuyền (phản) phản biện.

Phản biện tự nó không chỉ dừng ở trò chơi cá cuộc của hùng biện diễn luận và những cuộc bút chiến.

Nó còn là biển mê hoặc làm chúng ta chìm đắm nhanh chóng vào sóng đời tranh nhau vài mảnh bánh vụn vơi rãi dưới đất. Từ đó quên bén đi ai đang tỉnh bơ thuổng cả chiếc bánh trên bàn vào túi của họ. Không cần là chuyên gia thì ai cũng biết chuyện gì sẽ tiếp diễn xảy ra khi kẻ “cướp ngày” tiếp tục ung dung nắm giữ quyền lực một cách dễ dàng vì đã thuổng trọn chiếc bánh rồi mà.

© 2011 Vietsoul:21


[ii] Nhân dân, Nguyễn Hưng Quốc, VOA, 14/2/2011

[iii] Phản biện, Nguyễn Hưng Quốc, VOA, 11/12/2010

[v] Doanh nhân và dân chủ, Việt Hoàng, Thông Luận (số 255), 02/2011

[vi] Chứng quên tập thể, VietSoul21, 13/08/2010

[vii] Speakers’ Corner on the Nile, Thomas L. Friedman, NY Times, 7/2/2011

[ix] I-and-Thou, Martin Buber


Chúng tôi (Tự trào – Trí Thức – Tâm Tài)

In Cộng Đồng, talawas, Tạp văn, Việt Nam on 2010/06/15 at 14:52

” Để xoa dịu dị ứng của lương tâm, chúng tôi cũng làm việc thiện, việc phước đức đóng góp cho hội thập tự, bỏ thùng phước sương, giúp xây trường học, giúp quỹ xây cầu, v.v… Nó tạo một khoảng cách tình cảm an toàn giữa chúng tôi và đối tượng. Chúng tôi sống ở chốn bình an, không phải là những người khốn khó đó. Chúng tôi và “họ” là hai thực thể tách biệt. Người làm phước và người được ban phát. Những việc làm đó dần dà tăng sức đề kháng với dị ứng và đến một lúc nào đó chúng tôi được miễn nhiễm.”

—————

Vi Nhân

The opposite of courage is not cowardliness, it is conformity.”

(Anonymous)

The opposite of love is not hate, it’s indifference.  The opposite of art is not ugliness, it’s indifference.  The opposite of faith is not heresy, it’s indifference. And the opposite of life is not death, it’s indifference.”

(Elie Wiesel, Holocaust Survivor)

Cái Tôi của tôi rất lớn nhưng trên diễn đàn mạng thì xin phép các bác cho tôi ôm/vơ/dựa vào đám đông xưng là chúng tôi để thưa chuyện.

Chúng tôi lớn lên trong buổi giao thời, chưa đủ tuổi để tham gia vào cuộc chiến tương tàn cốt nhục. Nhưng dẫu sao chúng tôi cũng đã nghe những tiếng đạn pháo kích nửa khuya và hoảng hốt chui xuống hầm tránh đạn. Chúng tôi thấy dấu máu và tường sập do bị đặt chất nổ ở rạp xi nê mà bạn bè chúng tôi đã nhiều lần cúp cua đi xem phim hồi hộp. Chúng tôi thấy những chiếc xe cam nhông nhà binh chở đầy quan tài phủ cờ quốc gia. Chúng tôi đưa tang, làm giỗ chạp cho anh, cho chú. Chúng tôi cũng bao lần bỏ nhà, bỏ cửa để chuộc mạng di tản, chạy giặc. Rồi chúng tôi trôi dạt tới đất “xin nhận nơi này làm quê hương” thứ hai, kẻ đeo càng trực thăng, người leo lưới nhảy tàu, ai bọc giấy thông hành, và bao người chôn dầu vượt biển. Có hề gì, hãy quên đi cái mảng đời ấy.

Đất nước ngày xưa của chúng tôi bây giờ thì lại đang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc vào thời kỳ đồ đểu. Đểu qua sự dối trá của chữ nghĩa. Ông láng giềng to kềnh trở thành người “lạ”. Hữu hảo là bảo gì gật ấy. Đầy tớ nhân dân là đày đọa đồng bào. Diễn tiến hoà bình là tiến trình “phản động” cần đề cao cảnh giác. Quốc Hội là cơ quan lập pháp tối cao đại biểu nhân dân nhưng mọi việc phải chờ chủ trương của ban chấp hành trung ương của Đảng CSVN chỉ đạo. Đồng thuận đồng nghĩa với đồng im lặng, đồng gật đầu. Chúng tôi cùng nhau đi theo lề phải, cùng tung hứng nhịp nhàng với loa to, miệng gang miệng thép, để quan lộ hanh thông chứ. Chúng tôi thức thời biết sống với đểu. Chúng tôi là những người sành điệu. Vui thôi mà!

Dù bên này hay bên kia đại dương thì chúng tôi vẫn vui vẻ đánh đu với chữ nghĩa. Chúng tôi thích làm xiếc với phạm trù (triết học, mỹ học, văn học, sử học, v.v…) Hơn thế nữa, chúng tôi dùng mọi khả năng tri thức để tìm chỗ ẩn nấp cho lương tri. Vì mang sứ mệnh trí thức nên chúng tôi không bao giờ muốn để lương tri mình ở nơi thấp kém như gầm cầu, xó chợ. Nó phải được trịnh trọng bưng vào an tọa trong nơi kinh các, thư phòng, hí viện cho xứng đáng nhân thân.

Tâm của chúng tôi thì tròn trịa như viên bi, được dũa mài, được đánh bóng, lóng lánh muôn màu. Bi có thể lăn khắp mọi nơi, mọi hướng, không nằm yên một chỗ vì chỉ động đậy một chút là nó lăn theo hấp dẫn trọng lực (quyền lực). Tâm của chúng tôi được đong đếm, so sánh, cân nhắc với Tài để xem chữ Tâm có được bằng ba chữ Tài.

Chúng tôi thầm kín đắn đo mọi suy nghĩ và hành động vì Tài thì mọn mà Tâm thì mỏng. Trong chúng tôi có kẻ cố rèn luyện kỹ năng chuyên nghiệp và đồng thời mài dũa tâm cho đến một lúc nào đó thì tài cao học hẹp và lương tri tròn trụi. Chúng tôi cùng tự nhận với nhau là trí thức nhưng Tài thì nhỉnh nhỉnh cỡ một bồ và Tâm thì xình xình đâu một rổ. Toàn những chuyên viên chuyên cần chăm chỉ hạt bột. Thế nhưng cái Ngã thì to đùng. Chúng tôi ôm lấy cái chức vị, cái học vị như danh tánh bản thể (personal identity) không thể tách rời hoặc cắt đứt. Chúng tôi sợ chết lắm. Nhưng còn sợ hơn là sống mà bị mất chức danh. Như thể đời tàn. Chúng tôi cố bám lấy cái danh trông vẻ mỹ miều ấy. Nhất quyết phải che chở bao bọc và bán đổi nhiều thứ để an phận giữ lấy “danh”. Ai như cái ông Hữu Loan nào ấy dấm dớ chỉ vì thật mà bỏ tất cả về quê đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi thồ đá. Cứ nhũn đi một tí, cứ dối đi một tị thì chả việc gì! Đúng là con nhà tá điền, nhà nông, quê mùa chả biết gì. Thế đấy, cái Tâm của một người chất phát yêu, ghét quá rõ ràng, chẳng biết màu mè hay dấu diếm. Nên chỉ thiệt thân!

Trong giới chúng tôi nghe đâu có một chàng đeo càng sang đây, xấp xỉ tuổi “anh Ba”[1], mạnh mồm miệng ông Triết (gia). Cũng ngang hàng với người ta, cũng nói năng đúng mức đàng hoàng … Cũng biết cách tư vấn “… vấn đề này là khó lắm đó … chúc ông nỗ lực làm được việc này … vừa động viên … vừa phân hoá” …[2] Ông có viễn kiến tiến trình dân chủ hoá đất nước và chuyện bỏ tù dăm ba người hoạt động dân chủ cũng là chuyện nhỏ. Vì theo cái nhìn biện chứng và sử tính thì mạng con giun cái kiến chả là gì! Con giun cái kiến chẳng thể nhìn xa hiểu rộng—không phân biệt hiện tượng và bản chất, không phóng chiếu tư duy, không nắm được tất yếu của lịch sử, của thời kì quá độ (quá đáng) nên bao nhiêu cũng bị “hy sinh” tế sống cho một đảng “bách chiến bách thắng”. Nhằm nhò chi. Run rủi sao chúng tôi (kể cả ông ấy) đã làm chuyện “phản động”, “phản bội tổ quốc”, bỏ nước ra đi nên bây giờ được hưởng tự do, có nhà (không) cao (nhà trệt), cửa rộng (theo tiêu chuẩn). May là lúc đó đổ khùng “phản động” chứ chờ bây giờ lò mò ra đi theo hạng xuất khẩu lao động làm người rơm, người rừng[3] còn gian truân hơn kiểu “Bác Hồ ra đi tìm đường cứu đói”. Có dại gì mà làm chuyện “chống phá nhà nước”!!!

Chúng tôi có đủ tri thức để tán hươu Đông Tây kim cổ. Tri thức này được trang bị với tinh thần duy lý của hệ thống giáo dục Tây phương nên mọi việc, mọi thứ đều có thể được miêu tả, đong đếm, phân loại, sắp hạng, so sánh, phân tích, và tổng hợp. Mọi luận án, đề án đều có phần kết luận gần như bất khả thi hay tránh né thực hiện. Đó không phải là việc của chúng tôi! Chúng tôi có đủ khả năng lý luận ngụy biện cho mọi việc, với người khác, với nhau, và với cả bản thân. Điều đó không có gì khó vì chúng tôi là những chuyên gia tỉnh lẻ, quen thói tuân thủ nên rất dễ được thuyết phục.

Sinh ra và lớn lên ở Việt Nam vùng Đông Nam Á nên chúng tôi được nghe rất nhiều triết lý Phật giáo và Thiền. Chúng tôi bảo nhau đừng nhìn cái ác và cái thiện trong con mắt của người phàm, từ ý thức trần thế, mà phải nhìn từ ngoài thuyết lưỡng phân. Thiện Ác thì mắt phàm sao thấy được cho nên đừng có mà lên tiếng, chớ có mà hành động để tránh được nhiều phiền toái và thân tâm an lạc. Hơn nữa chúng tôi tin vào cái nghiệp. Chúng tôi có mặt ở xứ tự do, được cuộc sống an lành đó là phước đức ông bà để lại. Còn những đồng bào bị áp bức, bị khổ đau thì cũng là tại cái nghiệp của họ. Cái nghèo, cái đói, cái ngu nào phải do chính quyền thối nát, xã hội đảo điên gây ra. Họ phải chịu trách nhiệm cho bản thân họ như thế thôi. Chúng tôi còn nhắn nhủ nhau nên nhìn vấn đề như những công án thiền—lục lạo và đối chiếu xem cái nào hợp với lý của mình. Chúng tôi cười trên huyên náo của thời cuộc, với cái nhìn của “thức giả” nằm ngoài sự việc và hiện thực, cho rằng mọi hành động chỉ là trò đời, rốt cuộc sự việc trên đời rồi vậy vẫn vậy. Kế sách của chúng tôi là án binh bất động. Chúng tôi lý luận cả hai mặt của một vấn đề (two sides of a coin) (chớ vu là ba phải, vì chỉ mới có hai) nhưng chỗ đứng của chúng tôi thì nhất định phải nằm ở mặt nào (mặt dày) sinh lợi, ít ra là không có hao hụt quyền lợi và danh tánh tùy thuộc vào hoàn cảnh, thời gian. Cùng quá thì ghạt ngang, mắc mớ chi để bàn cãi, tranh luận vì đồng tiền một mặt, hai mặt đã nằm trong túi của tui.

Thật lòng mà nói thì chúng tôi cũng cảm thấy khó chịu và dị ứng với những áp bức, bất công, và giới hạn tự do. Chúng tôi loay hoay, ngứa ngáy do tác động dị ứng và đi tìm liều thuốc xoa dịu. Rất may, chúng tôi có một kho thuốc trị liệu truyền thống: tư tuởng Khổng giáo, Lão giáo, và Phật giáo. Mỗi dị ứng đều có một toa thuốc trị liệu. Nước có minh quân thì ta phò, hôn quân thì ta về ở ẩn. “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa phải quét lá đa” có gì mà thắc mắc. Vô vi lão luyện trường sinh. “Đời là bể khổ” và mỗi người có cái nghiệp riêng. Để xoa dịu dị ứng của lương tâm, chúng tôi cũng làm việc thiện, việc phước đức đóng góp cho hội thập tự, bỏ thùng phước sương, giúp xây trường học, giúp quỹ xây cầu, v.v… Nó tạo một khoảng cách tình cảm an toàn giữa chúng tôi và đối tượng. Chúng tôi sống ở chốn bình an, không phải là những người khốn khó đó. Chúng tôi và “họ” là hai thực thể tách biệt. Người làm phước và người được ban phát. Những việc làm đó dần dà tăng sức đề kháng với dị ứng và đến một lúc nào đó chúng tôi được miễn nhiễm.

Miễn nhiễm lương tâm.

Miễn bàn.

© 2010 Vi Nhân

© 2010 talawas, http://www.talawas.org/?p=21341

_________________________________________________________

CHÚ THÍCH:

[1] anh Ba Dũng, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng

[2] Nguyễn Minh Triết “lòe” Việt Kiều

[3] Những bước chân đổi đời gian nan …

Các bài liên hệ:

(Phản) Phản Biện và Sự Thật

Tôi là người Việt Nam

Những cái nhập nhằng không tênThe Unspoken Ambiguities

Các bài trên Tạp chí Da Màu:

Tháng Tư Câm

Hồn ma và xương khô

Đọc tiếp »

Tôi là người Việt Nam

In Cộng Đồng, Chính trị (Politics), Liên Kết, talawas, Việt Nam on 2010/05/25 at 07:46

“Họ bảo chúng tôi thiếu thông tin, thiếu hiểu biết. Họ bảo chúng tôi đừng mặc cảm nữa. Tại sao mặc cảm? Mặc cảm gì? Mặc cảm phe chiến bại ư? Mặc cảm bọn “phản quốc” bỏ nước ra đi ư? Làm gì có! Chúng tôi chẳng có mặc cảm, và luôn tự hào đã dám bỏ tất cả, chấp nhận tù đày và hiểm nguy trên biển cả sống vất vưởng để đi tìm tự do.”

—————

Vi Nhân

Tôi là người Việt Nam!

Tôi là người Việt Nam!

Tôi là người Việt Nam!

Lập đi lập lại câu này ba bốn lần trong đầu và tôi cảm thấy đau lòng. Đau đứt ruột.

Tôi vừa xem xong Thúy Nga Paris by Night 99, chủ đề “Tôi là người Việt Nam“. Rất nhiều người Việt Nam thành đạt trong mọi lãnh vực, chính trị, khoa học, kinh tế, tôn giáo, v.v… trên khắp thế giới Mỹ, Úc, Gia Nã Đại, Âu Châu được tuyên dương trong chương trình này. Những cá nhân đó với những thành tựu liệt kê xem ra đáng khâm phục. Họ đã vượt qua bao khó khăn cực nhọc trong tiến trình di cư hội nhập và sinh sống ở xứ người để có ngày hôm nay. Sức phấn đấu, trí sáng tạo, lòng tự tin, tính kiên nhẫn, tinh thần tự lực cánh sinh đã giúp họ đạt những thành quả vượt bực. Đó là những tấm gương sáng chói về thành công đường đời trên phương diện cá nhân.

Tôi là người Việt Nam. Nhưng sao lời khoa trương “tự hào dân tộc” hoặc hãnh diện là người Việt Nam này cũng làm tôi cảm thấy ngượng ngùng khi ngắm nhìn các thành tích của các cá nhân đó trong chương trình này. Có lẽ tôi lại thêm một chút gì xấu hổ thì đúng hơn khi “thấy người sang bắc quàng làm họ”. Vì những thành đạt của họ đâu ăn nhập gì đến cá nhân tôi! Tôi cũng chưa nhìn thấy những thành công với kích cỡ này đã mang lại ảnh hưởng tích cực gì cho dân tộc Việt Nam.

Ngược lại, ở xứ người này “một người làm quan cả họ được nhờ” thì cũng chẳng phải là một điều gì hay ho cho lắm. Hoa-kỳ, Úc, Gia-nã-đại, Pháp, Anh, Đức có chắc hãnh diện vì có những gương công dân di dân gốc Việt sáng chói đem lại thịnh vượng cho đất nước của họ? Hay lại trở thành oan khiên của diễn luận và huyền thoại “tấm gương dân thiểu số” (model minority), và là tấm bia gián tiếp dẫn đến những vụ giết người vì phân biệt ghen ghét (hate crime)? Chất xám của những người di dân đến các nước này có điều kiện để phát huy, và giúp tài năng họ nẩy nở tạo ra những thành tựu xuất chúng thì cũng là tất nhiên, nhưng dựa vào đó mà ôm lấy làm tự hào dân tộc Việt Nam ư?

Tôi là người Việt Nam. Rất nhiều lời kêu gọi “Tràng pháo tay cho mẹ Việt Nam”, “Yêu tổ quốc, dân tộc Việt Nam” trong chương trình này. Quả là những lời kêu gọi tình tự ngọt ngào đứt ruột! Khúc ruột ngàn dặm này chẳng đã từng bị cắt vất bao năm, sình chướng ở xứ người. Người Việt nào chẳng yêu mẹ Việt Nam. Nhưng thôi, đừng bắt mẹ Việt Nam phải hy sinh mãi mãi. Đừng bắt chị, bắt em bán thân đợ nợ. Đừng bắt trẻ, bắt già học giáo điều thối rữa. Chúng đã cắt da xẻ thịt mẹ đem cho kẻ “lạ”. Chúng từng thế chấp mẹ cả trăm năm ở rừng đầu nguồn. Chúng không ngừng đào bới lưng còng mẹ, rút tủy tài nguyên. Chúng còn đè lưng cưỡi cổ anh em con, mẹ Việt Nam ạ. Tất cả cho kẻ “lạ”! Còn anh em thì sống chết mặc bay. Chúng lại hành hung, khủng bố, giam cầm người con nào muốn bảo vệ mẹ. Mẹ là mẹ của tất cả các con chứ đâu phải riêng gì của chúng! Chúng lại bảo các con cần đóng góp nuôi dưỡng mẹ. Và cũng chính chúng trâng tráo hàng ngày rút máu mẹ bán trước đã. Các con càng thương mẹ bao nhiêu, thì chúng càng bòn rút mẹ bấy nhiêu. Chúng giết mẹ rồi. Con sói lang lấy chăn phủ người, lấy khăn che mặt. Nhưng chúng con dù là cô bé quàng khăn đỏ ngây thơ cũng biết mẹ là mẹ. Mẹ đâu có mắt lồi hung dữ, mẹ đâu có răng nanh nhọn hoắc, còn hôi mùi thịt, còn tanh mùi máu. Chúng bảo “Trung với Đảng!” Không! Một trăm lần không, một ngàn lần không. Đảng không là tổ quốc! Đảng chẳng bao giờ là tổ quốc.

Tôi là người Việt Nam. Những câu ca dao, tục ngữ “lá lành đùm lá rách”, “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống nhưng chung một giàn” lan chảy trong huyết quản, nằm lòng từ thuở cắp sách tới trường qua các bài học đức dục. Ai mà không yêu tổ quốc, dân tộc. Tuy nhiên, lòng yêu tổ quốc không thể để bị bán tráo cho một chủ thuyết lai căn vô nhân bản.

Tình đồng hương, đồng bào, nhân loại hiện nay đang được khai hoa, rộ trái qua các tổ chức thiện nguyện và bất vụ lợi. Hoạt động của khá nhiều đoàn thể này tạo một cơ cấu, một thuật loại tổ chức sinh hoạt tạo thuận lợi cho các đóng góp giúp đỡ từ mọi người. Họ làm với mục tiêu chuyên biệt và tập trung trong một lãnh vực. Thật đáng quý, đáng trọng biết bao. Mục tiêu của các tổ chức thiện nguyện này nhằm nâng đỡ người nghèo khổ, hoạn nạn, bất hạnh. Đó là cơ chế giảm, bù trong xã hội với nhiều hố cách biệt. Giảm đói, giảm nghèo; bù thiệt thòi, thiếu thốn. Tuy nhiên, các tổ chức thiện nguyện và bất vụ lợi thật ra chỉ là một cơ chế phụ trong một quốc gia, nhà nước. Vì sao?

An sinh xã hội trước hết phải phát xuất từ chính sách của quốc gia và trách nhiệm của nhà cầm quyền đương thời. Quốc sách “cơm no, áo ấm” cho toàn dân bao giờ cũng phải thật sự là điều nằm lòng trong tiềm thức và chủ tâm của người lãnh đạo. Chứ không phải trên đầu môi, chót lưỡi của cái loa tuyên truyền thuộc một nhà nước “xã hội chủ nghĩa” nhưng chẳng màng gì đến phúc lợi xã hội. Giáo dục công cộng đã bị lụn tàn và giờ đây lại đẻ ra vô số khoản “lệ phí” đòi hỏi từ cha mẹ học sinh. Y tế công cộng thì trở chiều bệnh hoạn một khi giới “lương y như từ mẫu” lúc nào cũng hạnh hoẹ “đầu tiên” (tiền đâu?) trong từng khâu, từng phòng.

Tôi là người Việt Nam. Bản thân tôi cũng đã đóng góp gián tiếp, trực tiếp ở các tổ chức thiện nguyện địa phương cũng như các hội xuyên quốc gia về đến Việt Nam. Điều này không mấy phiền khó. Thật dễ để đóng góp tài chánh cho tổ chức thiện nguyện, và cũng không lắm nhọc khi bỏ chút công sức tham gia quyên tiền, hoặc trực tiếp đến tận nơi giúp đỡ người hoạn nạn. Các tổ chức thiện nguyện luôn tạo điều kiện dễ dàng cho mọi người đóng góp—gián tiếp hoặc trực tiếp. Kiểu nào cũng có cả. Ai cũng có thể mua được chút yên ổn tâm hồn mình trong nghĩa cử nhỏ đó. Làm việc đạo hạnh thì được phước. Chúa Giê-su đã phán, Phật đã dạy thế kia mà.

Ở các nước phương Tây và Bắc Mỹ, cơ chế vô vụ lợi này đã được sản sinh đi song song với dòng tư hữu hóa các hoạt động công ích cho phúc lợi của người dân. Chính quyền tự động hết phải lo nhiệm vụ gánh vác phúc lợi xã hội và để cho cả hai khối “tân bảo thủ” (neo-conservative) và “tân tự do” (neo-liberal) đảm nhiệm việc xã hội nhưng đi theo luật thị trường. Chưa kể hết là những tệ nạn cấp mới của thành phần tự xưng thiện nguyện tốt bụng vô vụ lợi để che dấu những động cơ hám danh, thủ lợi đằng sau tấm màn sân khấu vì trò chơi chính trị của tranh dành ngân quỹ. Tệ nạn này được gọi chung là “hội chứng tập đoàn kỹ nghệ vô vụ lợi” (the non-profit industrial complex) giống như tệ nạn “hội chứng tập đoàn kỹ nghệ nhà tù” (the prison industrial complex) từ thế kỷ trước vẫn đang tiếp diễn.

Ca dao Việt Nam có câu “dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người”. Công việc thiện nguyện thật ra có tính chất xoa dịu tạm thời vết thương cấp bách, giảm bù những thiếu sót của xã hội mà thôi. Y thể như một nhà phát chẩn ở đâu đó đến cho những người nghèo đói tạm qua bữa, qua ngày. Xã hội nào mà người đứng xếp hàng trước nơi phát chẩn càng ngày càng dài và khi nhu cầu phát chẩn càng ngày càng tăng thì cái phước huệ đóng góp đó cần phải được suy nghĩ lại. Nhắm mắt làm phước thì dễ, nhưng mở mắt để nhìn bất công tạo đau khổ khốn cùng thì khó. Sao không ai chất vấn nguyên do gì số người đó càng ngày càng tăng trong khi cũng một số không ít người nhà sang cửa rộng, đô thị cao lớn, xe bóng loáng, tiệc tùng hoành tráng, áo xiêm lộng lẫy?

Đang còn biết bao những người “rơm”[1] ngủ rừng ngủ bụi xứ người, những người lao động không tên tuổi chết vùi trên đất khách, những em thơ làm nô lệ tình dục khi chưa biết mộng mơ. Cơ chế nhà nước thế nào thì kết quả cho con dân của xã hội thế đó. Giàu nghèo là chuyện đương nhiên, nhưng làm gì mà một bên thì giàu nứt vách đổ tường, và còn lại thì nghèo rớt mồng tơi phải là một câu hỏi lớn.

Những tên trưởng giả mới này là ai? Là con ông cháu cha, là con cháu các cụ[2]. Họ cũng xếnh xáng để “tên tuổi” nằm đầu bảng đóng góp thiện nguyện, nhưng trước đó thì họ đã vơ vét vào riêng, để rồi chỉ thí “cô hồn” chút ít hầu đánh bóng tín chỉ đạo đức của mình.

Những người nô lệ mới này là ai? Là nông dân mất ruộng, là công nhân mất việc, là ngư dân mất thuyền. Như trong chuyện ngụ ngôn về người ở cuối nguồn , chúng ta phải hỏi xem “Chuyện gì xảy ra ở đầu nguồn? Nguyên do nào mà các thi thể trôi dạt từ thượng nguồn xuống hạ lưu?” Khi hiểu và giải quyết được nguyên nhân từ thượng nguồn thì không còn vấn đề xẩy ra dưới cuối nguồn.

Tôi là người Việt Nam. Một đất nước bị đô hộ ngàn năm giặc Tàu, làm thuộc địa thực dân Pháp trăm năm, làm công cụ và lệ thuộc Mỹ, Nga, Tàu nhiều thập niên kéo dài cho đến hiện tại. Đã có một thời, toàn dân đã đứng lên trong phong trào giải thực với tinh thần dân tộc để giành lại độc lập. Nhưng vô số những người yêu nước đó, cha ông chúng tôi, đã bị bán đứng, bị thủ tiêu, bị kết án, bị đấu tố, bị kềm kẹp. Họ bị kẻ lừa bịp treo đầu dê bán thịt chó. Chúng đã treo bảng “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” nhưng bán ép chủ nghĩa “Cộng Sản” độc tài Stalinist, Maoist vô thần, bất nhân. Nay chúng lại treo bảng “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” nhưng món hàng thực chất là độc tài đảng trị, tư bản bè phái, đặc quyền, đặc lợi cho thiểu số cầm quyền và những kẻ quỳ lụy ăn theo.

Tôi là người Việt Nam. Chúng tôi được mang kèm thêm tên “tị nạn cộng sản”. Bây giờ chúng tôi lại “được” dán mác “khúc ruột ngàn dặm”, “kiều bào”, “việt kiều yêu nước”. Họ bảo chúng tôi thiếu thông tin, thiếu hiểu biết. Họ bảo chúng tôi đừng mặc cảm nữa. Tại sao mặc cảm? Mặc cảm gì? Mặc cảm phe chiến bại ư? Mặc cảm bọn “phản quốc” bỏ nước ra đi ư? Làm gì có! Chúng tôi chẳng có mặc cảm, và luôn tự hào đã dám bỏ tất cả, chấp nhận tù đày và hiểm nguy trên biển cả sống vất vưởng để đi tìm tự do. Một tự do mà chính quyền nhà nước cộng sản đã tước đoạt, không cho phép. Tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do đảng phái, tự do báo chí, tự do công đoàn. Chúng tôi không chấp nhận thứ tự do trong cũi, tự do đi lề bên phải, tự do làm con vẹt theo “chỉ đạo” của đảng cộng sản trong một nhà tù lớn.

Họ ve vãn bảo muốn hoà hợp, hoà giải với chúng tôi. Dân tộc, đồng bào, anh em của chúng tôi thì chẳng có gì để sinh ra phải hoà giải với nhau vì chúng tôi tự nhiên thương yêu nhau. Riêng với Đảng CSVN, chúng tôi cũng có thể sẵn lòng gạt bỏ mọi chuyện trong quá khứ để tiến tới tương lai. Nhưng chúng tôi không thể quên dĩ vãng này. Vì chúng tôi cần phải nhớ, phải mở mắt để thấy và kiểm định những việc đang xảy ra trong hiện tại và diễn tiến vào tương lai. Khi Đảng CSVN còn độc tôn lãnh đạo, cố bám chặt đặc lợi, đem đặc quyền cho bè nhóm thì những lời kêu gọi hoà hợp, hoà giải thật ra chỉ là một trò bịp. Tôi không thể nhắm mắt tự hào mình là người Việt Nam như thể trò bịp ấy không hề xẩy ra.

Tôi là người Việt Nam. Tôi sẽ hãnh diện là người Việt Nam với tự hào dân tộc khi đất nước dân tộc tôi thay đổi và phát triển theo chiều cấp tiến xã hội – mọi người được cơm no áo ấm, các trẻ em có tuổi thơ mơ mộng trong hệ thống giáo dục phổ thông miễn phí, những nông dân có ruộng để cày cấy, những công nhân được công đoàn lao động và luật pháp bảo vệ, các văn nghệ sĩ được tự do sáng tác và xuất bản, người khuyết tật, già nua được an sinh xã hội và y tế công cộng chăm lo, và trên hết mọi công dân được tự do bình đẳng dưới một nhà nước dân chủ pháp trị trong tinh thần dân tộc, nhân bản.

© 2010 Vi Nhân

© 2010 talawas, http://www.talawas.org/?p=20610

——————————–

CHÚ THÍCH:

[1] Những bước chân đổi đời gian nan – Câu chuyện người rơm

[2]Vietnam’s New Money (BILL HAYTON | JANUARY 21, 2010, Foreign Policy)

Các bài liên hệ:

Tự tình mẹ

Giờ phẫn nộ

Bịt miệng nạn nhân

Chúng tôi (Tự trào – Trí Thức – Tâm Tài)

Thời cửu vạn, ôsinThe Age of Day Laborer and Housemaid

Những cái nhập nhằng không tênThe Unspoken Ambiguities

Lết tới “thiên đường”

Phản bội hay trung thành với lý tưởng?

Các bài trên Tạp chí Da Màu:

Tháng Tư Câm

Hồn ma và xương khô

Nhạc minh hoạ:   Sinh ra là người Việt Nam – Phan văn Hưng